Bệnh nhãn khoa

Đục thủy tinh thể bẩm sinh: phát hiện và điều trị sớm

Đục thủy tinh thể bẩm sinh: phát hiện và điều trị sớm

Nhiều người nghĩ rằng đục thủy tinh thể chỉ gặp ở người già, nhưng thực ra ở trẻ con vẫn có thể có chứng bệnh này. Bệnh có thể xuất hiện từ lúc trẻ mới sinh (hay còn gọi là đục thể thủy tinh bẩm sinh) hoặc trong quá trình trẻ lớn lên (hay còn gọi là đục thể thủy tinh trẻ em). Có khoảng 0,4% số trẻ sinh ra bị đục thủy tinh thể bẩm sinh hay sớm xuất hiện.

Ở người lớn, bệnh xảy ra sau khi mắt đã phát triển và hoàn chỉnh chức năng thị giác. Phần lớn những người này vẫn giữ được thị giác tốt sau khi thủy tinh thể đục được lấy bỏ và thay thế bằng thủy tinh thể nhân tạo hay còn gọi là kính nội nhãn. Trong khi đó ở trẻ con, mắt còn tiếp tục phát triển cho đến 8-10 tuổi, các đục thủy tinh thể nếu không được điều trị sớm sẽ có thể bị những hậu quả lâu dài về thị giác. Nhưng nếu phát hiện bệnh sớm và điều trị ngay thì có thể đề phòng giảm thị giác vĩnh viễn do nhược thị ở trẻ em bị bệnh.

CÁC HÌNH THÁI ĐỤC THỦY TINH THỂ BẨM SINH THƯỜNG GẶP

• Đục thủy tinh thể cực trước nằm ở phần trước của thủy tinh thể mắt và được cho là thường hay kết hợp với các đặc điểm di truyền.

• Đục thủy tinh thể cực sau xuất hiện ở phần sau của thủy tinh thể mắt và thường có ranh giới rõ.

• Đục nhân thủy tinh thể xuất hiện ở phần trung tâm của thủy tinh thể và là loại hay gặp nhất của đục thủy tinh thể bẩm sinh.

• Đục thủy tinh thể lấm tấm xanh da trời thường thấy ở cả hai mắt của trẻ và phân biệt bằng các chấm nhỏ màu xanh xanh trong thủy tinh thể. Điển hình, loại này không gây ra vấn đề gì về thị giác. Trường hợp này dường như có xu hướng di truyền.

đục thủy tinh thể bẩm sinh

 

NGUYÊN NHÂN CỦA ĐỤC THỦY TINH THỂ BẨM SINH

Đục thủy tinh thể ở người lớn thường kết hợp với các quá trình lão hóa. Nhưng ở trẻ sơ sinh có thể do nhiều nguyên nhân bao gồm: di truyền, nhiễm trùng, các vấn đề chuyển hóa, đái tháo đường, chấn thương, viêm và các phản ứng thuốc.

Lấy ví dụ, các kháng sinh tetracycline dùng điều trị các nhiễm trùng cho phụ nữ mang thai đã được chứng minh là gây ra đục thủy tinh thể cho các trẻ sơ sinh.

Đục thủy tinh thể cũng có thể gặp ở trẻ sơ sinh khi người mẹ mang thai mắc các bệnh nhiễm trùng như sởi, sởi Đức (rubella), bệnh rubeola, thủy đậu, cytomegalovirus (CMV), herpes simplex, herpes zona, bệnh bại liệt trẻ em, bệnh cúm, bệnh do virut Epstein-Barr, giang mai và toxoplasmosis.

Trong đục thủy tinh thể bẩm sinh, có tới 33% trường hợp bị bỏ sót lúc mới đẻ.

Trong đục thủy tinh thể bẩm sinh do di truyền và một số các dạng khác, các bất thường có thể xảy ra trong sự tạo ra các proteins cần thiết để duy trì sự trong suốt của thủy tinh thể.

 

PHÁT HIỆN SỚM VÀ ĐIỀU TRỊ NHANH CHÓNG

Thủy tinh thể của mắt phải trong suốt để tập trung tiêu điểm của các hình ảnh nhìn thấy lên trên võng mạc, sau đó truyền thông tin lên não. Đục thủy tinh thể có thể ngăn cản ánh sáng đi tới võng mạc và làm phân tán các tia sáng khi chúng đi qua đám mờ, làm méo mó hình ảnh trên võng mạc.

Nếu không được điều trị thích hợp, bệnh có thể gây ra các kết nối bất thường giữa não và mắt. Các kết nối này một khi đã hình thành là không thể đảo ngược. Đục thủy tinh thể trẻ con có thể được phát hiện sớm nếu được khám tầm soát cẩn thận lúc mới sinh.

Để phát hiện bệnh sớm, một thử nghiệm quan trọng là soi ánh đồng tử được sử dụng trong đánh giá mắt của trẻ mới sinh và trong mọi thăm khám sau đó. Bác sĩ khám dùng một kính soi đáy mắt rọi lần lượt vào hai mắt của bé, trong buồng tối, ánh sáng của kính soi đi qua các môi trường quang học của mắt vào đến võng mạc thì phản chiếu trở lại và đi vào lỗ của kính soi, để lại hình ảnh trong mắt bác sĩ soi. Ở trẻ bình thường: tia phản chiếu từ hai mắt có màu đỏ và có tính chất đối xứng. Các trường hợp không bình thường: có các điểm tối trong tia phản chiếu, tia phản chiếu yếu, tia phản chiếu màu trắng, các tia phản chiếu không đối xứng. 

Các bất thường này có thể do: có dịch nhầy hay dị vật trong màng nước mắt, các đục của giác mạc, đục thủy dịch, các bất thường của lỗ đồng tử, đục thủy tinh thể, đục dịch kính và các bất thường của thủy tinh thể, mống mắt, hay võng mạc (các u hay các dị tật của mắt trẻ sơ sinh). Trong đục thủy tinh thể bẩm sinh, chúng thường được ghi nhận là không có hoặc có một tia phản chiếu không đều màu đỏ. Một lưu ý là không bỏ sót các trường hợp đồng tử trắng ở trẻ em, vì đây có thể là một trường hợp đục thủy tinh thể quá chín hoặc một bất thường khác của nhãn cầu đặc biệt là bệnh ung thư nguyên bào võng mạc – một căn bệnh nguy hiểm có thể gặp ở trẻ em. Khi phát hiện đồng tử trắng ở một hoặc hai mắt cần đưa trẻ đến ngay các trung tâm mắt chuyên sâu để được điều trị càng sớm càng tốt.

đục thủy tinh thể bẩm sinh

CHIẾN THUẬT ĐIỀU TRỊ DÀI HẠN

Điều trị đục thủy tinh thể trẻ con thay đổi tùy theo hình thái và độ nặng của mờ đục. Ở đại đa số trẻ con là phải mổ lấy bỏ thủy tinh thể đục. Không như người lớn với các con mắt đã phát triển về mặt giải phẫu và chức năng, mổ cho trẻ con phải có các dụng cụ mổ và kỹ thuật thích ứng. Trong tay phẫu thuật viên giàu kinh nghiệm, kết quả mổ lấy bỏ thủy tinh thể thường là an toàn. Các nguy cơ hay gặp nhất là tăng nhãn áp thứ phát, phản ứng viêm sau phẫu thuật và bong võng mạc.

Cho đa số trẻ em, việc chẩn đoán phát hiện bệnh sớm và một cuộc phẫu thuật thành công chỉ mới là bước đầu của quá trình phục hồi mắt. Bước tiếp theo phải là hiệu chỉnh các kết nối giữa mắt và não. Điều này bao gồm việc huấn luyện các con mắt để làm sao tập trung được vào một điểm cho phù hợp.

Sau phẫu thuật cắt bỏ thủy tinh thể đục, trẻ thường cần phải phối hợp với: hoặc cấy một thấu kính nhân tạo vào mắt (thấu kính nội nhãn) ngay trong lần mổ đầu, hoặc đặt các kính áp tròng, hoặc đeo kính gọng. Ở các nước phương Tây, người ta sử dụng nhiều nhất là các kính áp tròng, dùng các kính rộng vừa vặn với bề mặt của giác mạc mắt để dễ cho việc chăm sóc và thao tác; người trong gia đình được huấn luyện có thể tự mình làm cho những đứa bé nhỏ hoặc rất nhỏ khi chúng đang ngủ.

Nếu chứng nhược thị hay giảm sức nhìn xuất hiện, trẻ có thể phải dùng đến phương pháp tập che mắt. Cách điều trị này là che bên mắt mạnh hơn để kích thích thị giác bên mắt yếu hơn.

Những đứa bé được điều trị đúng thời điểm và được theo dõi tốt sẽ có tiên lượng tốt.

Muốn thành công phải mất một số năm để có được sự phục hồi thị giác thích hợp cho cá nhân từng người.

MỘT PHÁT MINH MỚI: CÁC TẾ BÀO GỐC GIÚP CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ ĐỤC THỦY TINH THỂ BẨM SINH NHÌN THẤY RÕ

Thứ Tư, Tháng Ba, năm 2016 – Tạp chí Nature đăng tải một phát minh của Kang Zhang, người Trung Quốc, Giám đốc sáng lập Viện Y học Hệ Gien thuộc Đại học California, San Diego, nghiên cứu trên loài vật và 12 trẻ em bị đục thủy tinh thể bẩm sinh, sử dụng tế bào gốc có tự nhiên trong mắt để tái sinh thành một thấu kính thủy tinh thể trong suốt; kỹ thuật mới này là một thay đổi triệt để giúp cho những đứa bé đục thủy tinh thể bẩm sinh có thể nhìn được một cách bình thường mà không phải cấy thấu kính nhân tạo nội nhãn. Khi nào có được các thông tin cập nhật và các bài báo tin cậy khác nữa, chúng tôi sẽ có dịp trở lại với vấn đề này.

CÁC ĐỤC THỦY TINH THỂ VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC VỀ THỊ GIÁC

Nếu không can thiệp sớm, các đục thủy tinh thể bẩm sinh sẽ gây ra chứng nhược thị hay ‘mắt lười’. Tình trạng này về sau có thể dẫn đến các vấn đề khác của mắt, ví dụ như chứng giật nhãn cầu, lác mắt (lé mắt) và không thể nhìn chăm chú vào các đồ vật.

Các vấn đề này có thể ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng đọc, cá tính và ngay cả dáng vẻ bề ngoài, tác động sâu sắc đến đứa bé suốt đời. Con bạn phải được khám mắt đều đặn, càng sớm càng tốt sau khi đứa bé được sinh ra.

Nguồn: ThS BS Hồng Văn Hiệp- Tạp Chí Sống Khoẻ - Bệnh viện ĐH Y Dược Tp.HCM

 

Xem thêm các bệnh lý nhãn khoa  tại đây.

 

Đang xem: Đục thủy tinh thể bẩm sinh: phát hiện và điều trị sớm

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng