Bệnh nhãn khoa

Phẫu thuật đục thủy tinh thể bẩm sinh

Phẫu thuật đục thủy tinh thể bẩm sinh

Nhiều người nghĩ rằng đục thủy tinh thể chỉ gặp ở người già, nhưng thực ra ở trẻ con vẫn có thể có chứng bệnh này. Bệnh có thể xuất hiện từ lúc trẻ mới sinh (hay còn gọi là đục thể thủy tinh bẩm sinh) hoặc trong quá trình trẻ lớn lên (hay còn gọi là đục thể thủy tinh trẻ em).

Đa số đục thủy tinh thể bẩm sinh phải cần đến phẫu thuật để lấy bỏ thủy tinh thể đục. Một số nhỏ không phải mổ là các trường hợp thủy tinh thể chỉ bị đục ở phần ngoại vi không ảnh hưởng đến thị giác trung tâm, hoặc trong trường hợp các chấm mờ đục rất nhỏ không làm cản trở hoặc phân tán các tia sáng gây méo mó hình ảnh trên võng mạc.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRƯỚC MỔ

• Ở người lớn, phẫu thuật đục thủy tinh thể có thể chậm lại một số năm mà không mấy ảnh hưởng đến khả năng nhìn. Ở trẻ con, nếu đục thủy tinh thể không được lấy bỏ trong năm đầu đời thì thị giác không thể nào tốt lại được một cách hoàn hảo sau phẫu thuật.

• Ở người lớn, nếu đã được mổ lấy bỏ thủy tinh thể (tức tình trạng không còn thủy tinh thể) mà không được hiệu chỉnh ngay thì vẫn có thể làm muộn hơn. Ở trẻ nhỏ, nếu lấy bỏ thủy tinh thể mà không được hiệu chỉnh sớm thì thị giác sẽ chẳng bao giờ phục hồi lại được một cách bình thường.

• Trẻ con rất ít khi bị đục thủy tinh thể, nhưng khi bị lại thường hay đi kèm với một vài bệnh toàn thân khác. Đa số các bệnh này hiếm thấy và thông thường chúng ta không biết đâu là nguyên nhân gây ra đục thủy tinh thể. Ngay ở các nước giàu có, người ta cũng không tìm được căn nguyên cho đa số các trường hợp đục thủy tinh thể ở trẻ con.

Không có ích lợi gì khi cho làm nhiều các khám nghiệm hay nhiều các nghiên cứu cho tất cả trẻ con bị đục thủy tinh thể. Tốt hơn là hỏi tỉ mỉ bố mẹ các cháu về tình hình bệnh của bé và thân nhân, hỏi về các bệnh hay các thuốc người mẹ dùng khi mang thai, và xác định xem đứa bé có phát triển bình thường không.

• Khi đứa trẻ lớn lên, các nhu cầu về thị giác sẽ ngày một tăng. Thí dụ, một đục thủy tinh thể nhẹ có thể không cản trở việc chơi ở bên ngoài nhà cho đứa bé lên 4, nhưng sẽ trở thành vấn đề ở nhà trường khi đứa bé tập đọc ở tuổi 6 - 7. Nhớ rằng khi lấy bỏ thủy tinh thể đục ở đứa trẻ thì cũng đồng thời loại bỏ luôn khả năng điều tiết mắt của nó, cho nên việc từng bước khôi phục khả năng điều tiết mắt là điều phải được đặc biệt quan tâm.

• Mặc dù phẫu thuật đục thủy tinh thể cho trẻ con phải được tiến hành càng sớm càng tốt nhưng nếu như có một lưỡng lự nào đó về chỉ định của phẫu thuật thì vẫn có thể trì hoãn thêm một ít thời gian, không sợ sẽ xảy ra một tổn thất nghiêm trọng nào đó cho bé. Khi chúng lớn thêm, khám xét thị giác sẽ dễ hơn để có quyết định chính xác hơn về việc mổ hay không mổ.

đục thủy tinh thể bẩm sinh

 

PHẪU THUẬT

Mổ đục thủy tinh thể cho trẻ em rất khác với mổ cho người lớn. Phẫu thuật đòi hỏi gây mê toàn thân. Có thể kèm theo các bất thường của tim và các nơi khác. Con mắt trẻ con cũng khác xa con mắt người lớn. Thủy tinh thể trẻ con không có một nhân cứng bên trong, do đó có thể lấy bỏ toàn bộ thủy tinh thể chỉ bằng cách hút. Lấy thể thủy tinh không đặt kính nội nhãn Ở trẻ em lấy thể thủy tinh không đặt thấu kính nội nhãn, phẫu thuật được thực hiện qua vết mổ nhỏ ở vùng rìa tức là phần dẹt của thể mi trong lớp mạch mạc mắt bằng dụng cụ cắt dịch kính (hay đầu cắt dịch kính). Đây là vùng an toàn đi vào nhãn cầu trong phẫu thuật dịch kính, ít chảy máu, không có tế bào cảm thụ của võng mạc. Dịch tưới hút có thể được cung cấp qua một ống dẫn tích hợp hoặc bằng một đường riêng biệt. Không cần dùng năng lượng siêu âm để tán nhuyễn thủy tinh thể như ở người lớn do vỏ và nhân thủy tinh thể ở trẻ em thường mềm. Việc quan trọng là phải lấy hết vỏ thủy tinh thể bởi vì các tế bào biểu mô thủy tinh thể ở trẻ em có xu hướng tăng sinh trở lại.

Do hiện tượng đục bao sau xảy ra nhanh chóng ở trẻ nhỏ, việc cắt bao sau và cắt dịch kính trước (tức dịch kính phần trước) được thực hiện chủ động. Kỹ thuật này cho phép thiết lập một trục thị giác trong suốt giúp thực hiện soi bóng đồng tử, chỉnh kính và theo dõi điều trị sau phẫu thuật lấy thủy tinh thể. Nếu có thể nên chừa lại một viền bao thủy tinh thể ở chu biên nhằm tạo thuận lợi cho việc đặt thấu kính nội nhãn trong một thì tiếp theo ở hậu phòng sau này.

Lấy thể thủy tinh và đặt thấu kính nội nhãn

Thấu kính nội nhãn là một mảnh mềm làm bằng chất liệu acrylic được dùng phổ biến trong phẫu thuật thủy tinh thể ở trẻ em. Kính loại này có thể đặt vào mắt qua đường mổ nhỏ 3 mm ở rìa giác mạc hoặc đường hầm củng mạc. Nếu kính nội nhãn được đặt vào cùng thời điểm phẫu thuật lấy thủy tinh thể, hai kỹ thuật cơ bản có thể được sử dụng để lấy thủy tinh thể phụ thuộc vào việc có giữ nguyên vẹn bao sau hay không. Nhiều phẫu thuật viên nhãn nhi giữ nguyên vẹn bao sau nếu đánh giá bệnh nhi có khả năng hợp tác để thực hiện mở bao sau bằng laser YAG nếu sau mổ xảy ra đục bao sau (thường từ 5 tuổi trở lên). Đối với trẻ nhỏ hơn thì thường phải cắt bao sau thì đầu lúc phẫu thuật lấy thể thủy tinh. Các nghiên cứu cho rằng ở trẻ em hiện tượng đục bao sau xảy ra trung bình từ 18 đến 24 tháng sau phẫu thuật nhưng khoảng thời gian này có thể thay đổi đáng kể.

đục thủy tinh thể bẩm sinh

 

Vấn đề Cấy thấu kính nội nhãn trong phẫu thuật

Ở trẻ con, cần phải hiệu chỉnh càng sớm càng tốt tình trạng không còn thủy tinh thể sau phẫu thuật. Một lựa chọn là cấy một thấu kính nội nhãn ngay khi mổ lấy bỏ thủy tinh thể đục. Không may là điều này không đơn giản. Khi mới sinh, thủy tinh thể gần với hình cầu nhiều hơn so với người lớn. Ở trẻ con, mắt có độ hội tụ khoảng 30 D, bù cho trục mắt ngắn hơn. Độ hội tụ giảm xuống còn khoảng 20-22 D ở tuổi lên 5. Điều này có nghĩa là một thấu kính nội nhãn cung cấp cho đứa bé một cái nhìn gần bình thường lúc đầu nhưng sẽ dẫn đến một độ cận thị đáng kể khi đứa bé lớn lên. Về sau sẽ càng phức tạp thêm vì các thay đổi trong khả năng hội tụ của giác mạc và vì trục của nhãn cầu dài thêm ra. Những thay đổi này là nhanh nhất trong vài năm đầu đời khiến cho hầu như không thể dự đoán được đúng cường độ của thấu kính cho mọi bé.

Cấy thấu kính nội nhãn đã trở nên gần như thường quy cho những đứa bé lớn hơn, nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi đối với các bé trẻ hơn, nhất là các bé dưới hai tuổi.

CHĂM SÓC SAU MỔ

Ở trẻ con, phẫu thuật chỉ mới là bước đầu của một chặng đường dài điều trị và điều này cần được nhấn mạnh ngay từ đầu.

Độ khúc xạ

Ưu tiên đầu tiên là hiệu chỉnh tình trạng không còn thủy tinh thể và phải được làm càng sớm càng tốt. Ở các xứ giàu, kính áp tròng được sử dụng rộng rãi, có thể thay kính dễ dàng. Hoặc đặt một thấu kính nội nhãn ngay trong phẫu thuật, hoặc dùng kính gọng bổ sung cho số sai lệch còn lại của khúc xạ. Độ khúc xạ cần được kiểm tra đều, ít nhất là mỗi 6 tháng cho đến trưởng thành.

Chứng nhược thị

Đa số trẻ em bị đục thủy tinh thể bẩm sinh sẽ bị giảm sức nhìn, tức nhược thị. Mổ lấy bỏ thủy tinh thể đục và hiệu chỉnh tình trạng không còn thủy tinh thể sẽ giúp khôi phục độ sáng rõ của hình ảnh nhưng não vẫn cần phải học cách nhìn và điều này cần có thời gian. Trường hợp thị giác không được khôi phục tốt, bé có thể bị các hậu quả như: nhược thị, rung giật nhãn cầu, lác mắt (lé mắt).

Thường thì một bên mắt sẽ tốt hơn mắt kia và mắt nhìn tốt hơn sẽ là mắt được ưa thích, làm cho mắt kia bị nhược thị. Nguy cơ của nhược thị lớn nhất trong năm đầu đời và giảm nhanh chóng sau tuổi lên năm. Điều trị bằng cách tập che phía bên mắt được ưa thích.

CÁC BIẾN CHỨNG

Các biến chứng thường gặp ở trẻ đã lấy thủy tinh thể rất khác biệt với người lớn. Bong võng mạc, phù hoàng điểm và bất thường ở giác mạc thường rất hiếm gặp ở trẻ em. Tần suất của nhiễm trùng hậu phẫu và xuất huyết có vẻ như tương đương với người lớn. Ở trẻ em, tật lác mắt rất thường gặp đi kèm với đục thủy tinh thể. Nguy cơ glô-côm tăng lên ở trẻ phẫu thuật càng nhỏ và glô-côm thường xảy ra sau phẫu thuật lấy thủy tinh thể nhiều năm.

Viêm màng bồ đào

Viêm màng bồ đào sau phẫu thuật là biến chứng thường gặp do phản ứng mô mạnh hơn ở người lớn. Điều này có thể dẫn đến hình thành dính mống sau gây nguy cơ trít đồng tử, mống phồng và hậu quả là glô-côm góc đóng thứ phát. Ở mắt trẻ em đã được đặt kính nội nhãn, sự hình thành dính mống sau và phản ứng viêm có thể làm tăng tỷ lệ tăng sinh của tế bào biểu mô thủy tinh thể phía trước và sau.

Đục bao sau

Hầu như mọi đứa trẻ không cắt mở bao sau về sau đều bị biến chứng này. Các phương pháp điều trị có thể là: mở bao sau với laser Nd:YAG thường khó ở trẻ em và tỷ lệ thất bại cao, đòi hỏi phải mổ cắtbao sau và phần trước dịch kính bằng dụng cụ cắt dịch kính.

Glô-côm

Glô-côm sau phẫu thuật đục thể thủy tinh ở trẻ nhỏ được ghi nhận là gặp rất nhiều. Biến chứng này có thể xảy ra sớm ở giai đoạn ngay sau phẫu thuật hoặc xuất hiện muộn hơn sau nhiều thập niên. Tỷ lệ glô-côm sau phẫu thuật thủy tinh thể ở trẻ em thay đổi từ 3% đến 32% . Glô- côm xảy ra sớm sau phẫu thuật thường do nghẽn đồng tử hoặc dính mống trước, trong khi đó thì glô-côm góc mở xảy ra muộn hơn, đòi hỏi phải theo dõi hậu phẫu lâu dài ở trẻ. Việc cắt mống chu biên có thể giúp giảm tình trạng glô-côm do nghẽn đồng tử ở mắt có đặt thấu kính nội nhãn.

Bong võng mạc

Hiếm gặp nhưng là một biến chứng đe dọa thị lực nghiêm trọng sau phẫu thuật lấy thủy tinh thể ở trẻ em. Tần suất của bong võng mạc sau phẫu thuật thể thủy tinh vào khoảng 1% đến 1,5%. Đây là một biến chứng muộn của phẫu thuật thủy tinh thể ở trẻ em. Các yếu tố nguy cơ quan trọng của biến chứng bong võng mạc sau phẫu thuật thủy tinh thể là cận thị nặng và thực hiện phẫu thuật nhiều lần. Việc thực hiện cắt bao sau và cắt dịch kính trước không phải là yếu tố nguy cơ. Tỷ lệ bong võng mạc có thể tăng lên khi có các bất thường khác kèm theo như tồn tại mạch máu phôi thai.

Nguồn: ThS BS Hồng Văn Hiệp- Tạp Chí Sống Khoẻ - Bệnh viện ĐH Y Dược Tp.HCM

 

Xem thêm bài viết tại đây.

 

Đang xem: Phẫu thuật đục thủy tinh thể bẩm sinh

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng