Bệnh nhi khoa

Bệnh võng mạc trẻ sinh non và những điều cần biết.

Bệnh võng mạc trẻ sinh non và những điều cần biết.

Bệnh võng mạc trẻ sinh non là gì?

Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non (ROP) là tình trạng rối loạn tăng sinh mạch máu, xảy ra ở võng mạc trẻ sinh non với quá trình tạo mạch máu võng mạc không hoàn chỉnh. Trẻ sinh non (trước 31 tuần), trẻ nhẹ cân (dưới 1,25 kg) và đặc biệt là những trẻ có tiền sử thở oxy cao áp kéo dài là những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh. ROP được đánh giá là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Bệnh võng mạc

 

Nguyên nhân gây ra bệnh võng mạc ở trẻ sinh non

Ở tuần thứ 16 của thai kỳ, mắt của trẻ sẽ bắt đầu phát triển các mạch máu võng mạc. Các mạch máu võng mạc phát triển và tiến dần đến cạnh võng mạc, cung cấp oxy và chất dinh dưỡng. Quá trình phát triển này sẽ diễn ra nhanh hơn ở 12 tuần cuối thai kỳ. Ở trẻ sinh non chưa đủ tháng, quá trình phát triển này bị gián đoạn, các mạch máu chưa tiếp cận đến cạnh võng mạc, không cung cấp đầy đủ oxy và chất dinh dưỡng cho cạnh võng mạc dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh lý về võng mạc.

Các giai đoạn phát triển của bệnh võng mạc ở trẻ sinh non

Bệnh ROP là một căn bệnh tiến triển, bắt đầu với những thay đổi nhỏ ở mạch máu, sau đó tiến triển dần đến những thay đổi lớn hơn ở vùng tiếp nối giữa võng mạc có mạch máu phát triển bình thường và võng mạc chưa có mạch máu (võng mạc vô mạch). Tiến triển của bệnh ROP được chia thành 5 giai đoạn với những đặc điểm tổn thương khác nhau:

  • Giai đoạn 1

Xuất hiện đường ranh giới mỏng màu trắng, ngăn cách giữa hai khu vực: khu vực võng mạc đã hình thành mạch máu và khu vực võng mạc vô mạch. Giai đoạn 1, các mạch máu vẫn có thể tiếp tục phát triển bình thường, tuy nhiên bác sĩ cần theo dõi chặt chẽ tình trạng của trẻ.

  • Giai đoạn 2

Lúc này, đường ranh giới giữa khu vực võng mạc đã hình thành mạch máu và khu vực võng mạc vô mạch đã nhìn thấy rõ hơn và phát triển khỏi bề mặt võng mạc, trở nên rộng và cao tạo thành một đường gờ màu trắng (nếu ít mạch máu) hoặc hồng (nếu nhiều mạch máu). Các búi mạch máu bất thường rải rác sau gờ, tạo ra hình ảnh giống như ngô rang.

  • Giai đoạn 3

Đây là giai đoạn tăng sinh sợi mạch ngoài võng mạc. Từ bề mặt của gờ, tổ chức xơ mạch tăng sinh, phát triển lan rộng ra phía sau bề mặt võng mạc; hoặc phát triển ra trước, vuông góc với bình diện võng mạc vào trong dịch kính. Ở giai đoạn 3, tình trạng bệnh ROP còn được chia theo mức độ nhẹ, vừa và nặng; tùy thuộc vào mức độ tăng sinh của tổ chức xơ mạch vào trong dịch kính.

  • Giai đoạn 4

Tổ chức xơ phát triển mạnh vào trong buồng dịch kính gây nên tình trạng co kéo vào võng mạc, làm một phần võng mạc bong khỏi thành nhãn cầu. Dựa vào vị trí của võng mạc bong, người ta lại chia giai đoạn này ra làm hai phần: 4A và 4B.

Giai đoạn 4A: chức năng của mắt lúc này chưa bị tổn hại nhiều. Tình trạng bong võng mạc còn chưa lan tới vùng hoàng điểm.

Giai đoạn 4B: chức năng của mắt giảm rõ rệt. Tình trạng bong võng mạc rộng hơn lan tới cả võng mạc vùng hoàng điểm.

  • Giai đoạn 5

Bong võng mạc toàn bộ. Võng mạc bị bong cuộn lại có dạng hình phễu. Có ba loại phễu: phễu mở, phễu đóng, phía trước đóng, phía sau mở.

Yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc bệnh võng mạc ở trẻ em

Với những tiến bộ vượt bậc của y học trong việc chăm sóc trẻ sinh non trong những năm gần đây, rất nhiều trẻ sơ sinh nhẹ cân, tuổi thai nhỏ được cứu sống. Tuy nhiên, một vấn đề nổi bật ở trẻ sinh non thiếu tháng là bệnh võng mạc ở trẻ sinh non, khi tuổi thai càng nhỏ, tỷ lệ mắc bệnh càng cao.

Những đối tượng cần được chẩn đoán và theo dõi bệnh võng mạc trẻ sơ sinh bao gồm:

Trẻ sinh non dưới 31 tuần;

Trẻ có cân nặng khi sinh dưới 1500g;

Trẻ có cân nặng khi sinh từ 1500g – 2000g, là trường hợp đa thai;

Trẻ có cân nặng khi sinh 1500g – 2000g, có các bệnh lý kèm theo như bị ngạt khi sinh phải thở oxy trong kéo dài, viêm phổi, thiếu máu, nhiễm trùng,…

Triệu chứng nhận biết bệnh võng mạc ở trẻ

Bệnh ROP ở giai đoạn sớm (như giai đoạn 1 và 2), nếu chỉ quan sát bằng mắt thường thì rất khó để thấy được dấu hiệu bệnh. Bệnh biểu hiện những triệu chứng ra bên ngoài chỉ khi bước vào giai đoạn muộn. Do đó để phát hiện sớm bệnh võng mạc ở trẻ sinh non và điều trị hiệu quả, Ba Mẹ cần phải cho bé khám sàng lọc chuyên khoa mắt ngay sau sinh.

Biến chứng bệnh võng mạc

Ở thể nhẹ, khi bệnh đã được chữa khỏi và không tiến triển thêm, trẻ vẫn có thể mắc một số khuyết điểm như cận thị hoặc lé khi lớn. Tuy nhiên, Ba Mẹ không nên quá lo lắng, vì những trường hợp này các bác sĩ sẽ điều chỉnh khi bé được 1-2 tuổi. Mặt khác khi bệnh võng mạc ở trẻ sinh non đã tiến triển thể nặng, công tác điều trị sẽ vô cùng khó khăn, bệnh nhi có thể bị mù lòa; loạn sản phổi – phế quản có thể gặp ở trẻ sinh cực non hoặc trẻ suy hô hấp phải thở máy. Ngoài ra, ROP còn có thể tiến triển thành nhiễm trùng, vàng da nặng, thiếu máu.

Điều trị bệnh võng mạc

Đối với bệnh võng mạc ở trẻ sinh non, điều trị càng sớm hiệu quả thu được sẽ càng cao. Phương pháp điều trị hiệu quả cho căn bệnh võng mạc ở trẻ sinh non hiện nay là điều trị bằng laser quang đông. Kỹ thuật điều trị bằng laser giúp loại bỏ vùng võng mạc không mạch máu ở ngoại vi, giảm tỷ lệ nếp gấp võng mạc và bong võng mạc. Trước khi tiến hành kỹ thuật laser quang đông, trẻ cần được điều trị ổn định các bệnh đang mắc như viêm phổi, suy hô hấp, thiếu máu,…; cho trẻ nhịn ăn trước điều trị 3-4 giờ; đồng tử được giãn tốt bằng Mydrin-P.

Các vật dụng cần thiết cho kỹ thuật điều trị bệnh ROP bằng laser như:

  • Vành mi và ấn củng mạc vô khuẩn;
  • Kính lúp 20D và 28D;
  • Máy laser diode có bước sóng 810nm hoặc 532nm;
  • Phương tiện gây mê nội khí quản hoặc tiền mê ngủ;
  • Phương tiện hồi sức sơ sinh.

Bác sĩ gây mê nội khí quản hoặc tiền mê ngủ cho trẻ. Cường độ laser ban đầu (với máy laser có bước sóng 810nm) là 180-200nw và 80nw (với máy laser 532nm). Nếu đốt liên tục, khoảng cách giữa hai vết đốt là 100-200ms. Số lượng của vết đốt tùy thuộc vào phạm vi tổn thương rộng hay hẹp. Tất cả vùng võng mạc vô mạch trước gờ xơ đều cần được laser và thậm chí trong những trường hợp nặng, các bác sĩ có thể chỉ định điều trị cả vùng võng mạc sau gờ xơ bằng 2-3 hàng laser.

Sau điều trị laser, bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhi sử dụng sử dụng thuốc nhỏ mắt kháng sinh, kháng viêm steroid, có thể tra thêm liệt điều tiết mắt trong vòng 7 ngày. Ngoài ra, công tác theo dõi và tái khám cũng cần được phụ huynh quan tâm và chú trọng sau điều trị. Trẻ cần được tái khám 1 tuần, 2 tuần hoặc 1 tháng sau điều trị; tùy thuộc vào chỉ định của bác sĩ điều trị. Nếu bệnh ROP chưa thoái triển, có vùng võng mạc chưa laser hay môi trường quang học còn trong, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhi tiến hành thêm điều trị laser bổ sung. Trẻ cần được theo dõi tình trạng mắt lâu dài để kịp thời phát hiện các biến chứng như tật khúc xạ, lác, bong võng mạc,… từ đó có phương pháp hỗ trợ điều trị thích hợp. Như với những trẻ có tật khúc xạ về mắt cần được chỉnh kính sớm, đeo kính và điều trị phòng chống nhược thị; với những trẻ bị bệnh nhưng không cần điều trị cần kiểm tra khúc xạ sớm và chỉnh kính nếu cần thiết.

Phòng ngừa bệnh võng mạc ở trẻ sinh non

Với trẻ sinh non có cân nặng 1800g và tuổi thai lúc sinh dưới 34 tuần, Ba Mẹ cần đưa trẻ đến những bệnh viện uy tín có chuyên khoa về mắt để được thăm khám chính xác và điều trị kịp thời cho những trường hợp mắc bệnh võng mạc ở trẻ sinh non.

Ngoài ra để phòng ngừa hiệu quả căn bệnh này, thai phụ cần lưu ý chăm sóc bản thân thật tốt để tránh sinh non và thăm khám thai sản định kỳ. Một số biện pháp dưới đây sẽ hỗ trợ thai phụ phòng ngừa sinh non hiệu quả:

Không nên có thai quá sớm <18 tuổi, hoặc quá trễ >35 tuổi;

Tìm nguyên nhân và điều trị nếu thai phụ từng có tiền sử sinh non;

Uống đủ nước để ngăn chặn tình trạng mất nước gây khó chịu tử cung;

Không nhịn tiểu, thai phụ vệ sinh thật kỹ sau khi đi vệ sinh để hạn chế tối đa nguy cơ viêm nhiễm;

Vệ sinh răng miệng, điều trị các bệnh nha chu;

Hạn chế tư thế nằm ngửa, có thể nằm nghiêng sang trái hoặc nghiêng sang phải;

Cân bằng thời gian biểu giữa công việc và nghỉ ngơi hợp lý, tránh căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày;

Có chế độ dinh dưỡng khoa học, tránh công việc nặng nhọc, công việc nguy hiểm, hoặc môi trường độc hại;

Theo dõi chặt chẽ để phát hiện những cơn gò tử cung bất thường, đi khám và điều trị dự phòng sinh non kịp thời.

Ngoài bệnh võng mạc khiến trẻ sinh non có thể cướp đi ánh sáng, trẻ còn có thể mắc những căn bệnh nguy hiểm có thể dẫn đến nguy cơ tử vong, hoặc gây những di chứng ảnh hưởng đến cuộc sống tương lai như: bạch hầu, bại liệt, uốn ván,… Do đó, mẹ cần bảo vệ sức khỏe của con ngay từ khi lên kế hoạch mang thai bằng việc tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin phòng bệnh được khuyến cáo. Bằng việc tiêm phòng vắc xin trước khi mang thai, mẹ cung cấp cho trẻ một lượng kháng thể để bảo vệ trẻ trong những năm tháng đầu đời, khi bé chưa đủ tuổi để chủng ngừa vắc xin.

Các loại vắc xin phòng bệnh được khuyến cáo cho phụ nữ chuẩn bị mang thai có thể kể đến như: vắc xin phòng bệnh cúm, vắc xin phòng sởi-quai bị-rubella, vắc xin phòng thủy đậu, vắc xin phòng bạch hầu-ho gà-uốn ván, vắc xin phòng viêm gan B.

Để biết thêm thông tin bệnh khác vui lòng truy cập tại đây.

Đang xem: Bệnh võng mạc trẻ sinh non và những điều cần biết.

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng