
1. Bệnh thận IgA là gì?
Bệnh thận IgA (IgA nephropathy) là một trong những tổn thương cầu thận hay gặp nhất trong viêm cầu thận. Bệnh thận IgA thường gặp hơn trong các quần thể da trắng và người châu Á. Tỷ lệ mắc mới bệnh thận IgA ước tính tại Pháp là khoảng 26 và 30 trường hợp mới phát hiện bệnh trên một triệu dân, ở trẻ em Nhật Bản 45 trường hợp trên một triệu dân, và ở Hoa Kỳ 12 trường hợp trên một triệu dân.
2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chưa được biết rõ, song có các bằng chứng gợi ý rằng có thể có một số cơ chế, bao gồm:
- Tăng tổng hợp IgA1
- Có khiếm khuyết trong quá trình glycosyl hóa IgA1 làm tăng liên kết với tế bào gian mạch.
- Giảm độ thanh thải IgA1
- Có khiếm khuyết ở hệ thống miễn dịch niêm mạc.
- Sản sinh quá nhiều cytokine kích thích sự tăng sinh tế bào gian mạch.
3. Triệu chứng
Các biểu hiện thông thường nhất là đái máu đại thể dai dẳng hoặc tái phát hoặc đái máu vi thể không triệu chứng với protein niệu mức độ nhẹ. Đau thắt lưng và sốt nhẹ có thể xuất hiện trong giai đoạn cấp. Các triệu chứng khác thường không nổi bật.
Đái máu đại thể thường bắt đầu từ 1 đến 2 ngày sau bệnh có tổn thương niêm mạc và sốt (đường hô hấp trên, xoang, đường ruột), cũng giống như viêm cầu thận cấp sau nhiễm trùng ngoại trừ thời gian xuất hiện đái máu sớm hơn (xuất hiện cùng lúc hoặc ngay sau khi bị sốt). Khi điều này xảy ra với một bệnh đường hô hấp trên, nó đôi khi được nghĩ đến đái máu cùng lúc với viêm họng (synpharyngitis hematuria),
Viêm cầu thận tiến triển nhanh là biểu hiện ban đầu ở <10% bệnh nhân.
4. Chẩn đoán
Có các chẩn đoán sau:
- Xét nghiệm nước tiểu
- Đôi khi sinh thiết thận
Chẩn đoán được nghĩ đến khi có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:
- Đái máu đại thể, đặc biệt trong vòng 2 ngày bị bệnh có tổn thương niêm mạc kèm theo sốt hoặc đau thắt lưng.
- Các dấu hiệu phát hiện tình cờ trên xét nghiệm nước tiểu.
- Thỉnh thoảng, viêm cầu thận tiến triển nhanh
Khi các triệu chứng trung bình hoặc nặng, chẩn đoán được xác định bằng sinh thiết thận.
5. Điều trị
Hai tiêu chí cơ bản nhất của điều trị bệnh thận IgA là khống chế huyết áp, và giảm albumin niệu xuống dưới 0,5gam/24h. Tốt nhất là với thuốc ức chế men chuyển (ACE) hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin II (ARB).
Nếu hai mục tiêu được đáp ứng mà không có tác dụng phụ hoặc không đáng kể và bệnh nhân vẫn phù hợp trong thời gian dài, nhiều bệnh nhân có thể tránh được bệnh thận mạn tính tiến triển nặng.
Nếu bệnh nhân không thể đạt được các mục tiêu trên cho dù đã có những điều trị tích cực thì nên điều trị kết hợp với corticosteroids, chỉ định corticosteroids khi protein niệu/24h > 1 gam. Có thể cân nhắc sử dụng thuốc độc tế bào kết hợp với corticosteroids khi có biểu hiển của tình trạng suy thận tiến triển nhanh và tổn thương hình liềm trong kết quả mô bệnh học của sinh thiết thận.
Những nghiên cứu quan sát thấy một tỷ lệ cao hơn của sự khống chế triệu chứng lâm sàng ở bệnh thận IgA sau khi phẫu thuật cắt amiđan, so với điều trị steroid đơn độc.
Axit béo Omega-3 cũng có thể được xem xét như là một biện pháp điều trị thêm vào, đặc biệt đối với bệnh nhân có protein niệu nặng và mức lọc cầu thận giảm.