
MỞ ĐẦU
Đường tiểu dưới có 2 chức năng chính: chứa đựng và tống xuất nước tiểu. Các phép đo niệu động lực học (NĐLH) là những phép đo dùng để đánh giá các chức năng của đường tiểu dưới, bao gồm những khảo sát về quá trình chuyển vận, chứa đựng và tống xuất của nước tiểu của đường tiểu dưới như hoạt động của bàng quang, hoạt động của cơ thắt niệu đạo, dạng thức của sự đi tiểu, sự phối hợp giữa hoạt động của bàng quang và niệu đạo… Hầu hết những bệnh nhân rối loạn chức năng đường tiểu dưới đều có lợi từ một số phép đo niệu động lực học, tuy nhiên các phép đo này đặc biệt hữu ích cho một số nhóm bệnh như tiểu không tự chủ, bế tắc đường tiểu dưới, rối loạn chức năng thứ phát từ bàng quang thần kinh và những trẻ em có tình trạng rối loạn đi tiểu phức tạp...
CÁC PHÉP ĐO CƠ BẢN CỦA NIỆU ĐỘNG LỰC HỌC
Khoảng 50 năm trước, chỉ có vài phép đo NĐLH đơn giản như đo niệu dòng, đo áp lực bàng quang, đo điện cơ đáy chậu, đo áp lực cắt dọc niệu đạo. Nhưng khoảng hơn 20 năm trở lại, cùng với sự cải tiến về kỹ thuật và xuất hiện nhiều máy móc hiện đại, đã có thêm nhiều phép đo mới hoặc phối hợp các phép đo như đo áp lực bàng quang lúc són tiểu, đo áp lực bàng quang-niệu dòng, đo áp lực bàng quang-điện cơ, đo áp lực bàng quang-niệu dòng-điện cơ, quay phim NĐLH… Bài này chúng tôi xin giới thiệu 2 phép đo chính của NĐLH là phép đo niệu dòng và phép đo áp lực bàng quang.
PHÉP ĐO NIỆU DÒNG
Đây là phép đo thông dụng nhất và duy nhất không xâm lấn trong các phép đo NĐLH. Cách đo khá đơn giản: chỉ cần bệnh nhân đi tiểu với một lượng tiểu thích hợp vào một phễu hứng của máy đo vốn được gắn kết với một máy biến năng để chuyển dữ kiện trong lượng nước tiểu thành dung tích rồi ghi lại thành biểu đồ với tốc độ ml/giây (xem hình 1 và hình 2). Phép đo niệu dòng được dùng như một xét nghiệm tầm soát chức năng của đường tiểu dưới một cách nhanh chóng và rẻ tiền.
Hình 1: Máy đo niệu dòng
Hình 2: Thực hiện thực đo niệu dòng
Các chỉ số cần khảo sát: Lượng tiểu, tốc độ niệu dòng tối đa (Qmax), tốc độ niệu dòng trung bình (Qave), thời gian đạt Qmax, thời gian đi tiểu, thời gian dòng tiểu và dạng thức của biểu đồ (Xem hình 3).
Hình 3: Niệu dòng đồ bình thường
Các giá trị bình thường:
- Lượng tiểu cần thiết để có thể đánh giá đúng mức phép đo niệu dòng là ~ 150 – 550 ml. Nếu lượng tiểu < 150 ml hay > 550 ml thì kết quả có thể bị sai lệch.
- Max bình thường ~ 20 – 25 ml/ giây đối với nam, 25 – 30 ml/giây đối với nữ.
- Tốc độ niệu dòng trung bình ít được dùng hơn Qmax, nhưng hữu ích để hiệu chỉnh cho những trường hợp Qmax bị nhiễu.
- Bình thường thời gian đi tiểu bằng với thời gian dòng tiểu. Gọi là đi tiểu kéo dài nếu > 30 giây. Khi dòng tiểu bị ngắt quãng nhiều đợt thì thời gian đi tiểu dài hơn thời gian dòng tiểu.
- Thời gian đạt Qmax bình thường < 1/2 thời gian dòng tiểu.
- Niệu dòng đồ bình thường có dạng hình chuông úp xuống.
- Hình dạng của niệu dòng đồ có thể cung cấp những thông tin hữu ích, chẳng hạn đường biểu diễn không đều đặn có thể do sức rặn bụng hoặc do bất đồng vận bàng quang-cơ thắt.
Lưu ý:
- Những trị số nêu trên thường chỉ đúng với người trưởng thành và không quá cao tuổi. Đối với trẻ em hay người già, cần phải có sự hiệu chỉnh. Có nhiều biện pháp hiệu chỉnh tùy theo nhiều tác giả. Chúng tôi chọn bảng hiệu chỉnh thông dụng của Siroky và Krane (1999) (xem bảng 1)
Nhóm bệnh nhân | Tuổi | Qmax bình thường (ml/giây) |
| < 40 | > 22 |
Nam | 40 – 60 | > 18 |
| > 60 | > 13 |
Nữ | < 50 | > 25 |
> 50 | > 18 | |
Trẻ em | < 10 | > 15 |
10 - 20 | > 20 |
Bảng 1 - Các giá trị Qmax bình thường đối với lượng tiểu trên 150 ml
- Thực ra, chỉ riêng phép đo niệu dòng thì không đủ cung cấp thông tin chính xác về loại rối loạn đi tiểu. Chẳng hạn nhiều khi ta không thấy sự khác biệt của niệu dòng đồ giữa bế tắc dòng ra và suy yếu cơ bàng quang (xem hình 4). Dù sao, theo Abrams và Griffiths (1979) thì đối với các bệnh nhân nam, khi Qmax < 10 ml/giây thì 88% có bế tắc dòng ra.
Hình 4: Niệu dòng đồ hình dẹt với trị số Qmax thấp thường là biểu hiện của tắc đường tiểu dưới hoặc suy cơ quang bàng quang.
PHÉP ĐO ÁP LỰC BÀNG QUANG:
Phép đo áp lực bàng quang trong lĩnh vực NĐLH được ví như búa phản xạ trong thăm khám thần kinh. Phép đo này nhằm khảo sát sự thay đổi áp lực của bàng quang tùy theo sự thay đổi của dung tích bàng quang.
Phương pháp đo
- Khởi thủy người ta đo với dụng cụ cột nước đơn giản, trong đó thông niệu đạo được đặt vào bàng quang với đuôi thông có 2 nhánh (xem hình 5): 1 nhánh để bơm nước vào với tốc độ chậm ~ 25 – 100 ml/phút; 1 nhánh gắn với thước đo để ghi nhận biến thiên của áp lực trong bàng quang theo dung tích bàng quang (xem hình 6).
Hình 5: Đo áp lực bàng quang bằng phương pháp cột nước
Hình 6: Áp lực đồ bàng quang đơn kênh
- Về sau các máy đo được chế tạo ngày càng hiện đại, điện tử hóa rồi điện toán hóa, với các dữ kiện và biểu đồ biến thiên áp lực theo dung tích được thể hiện trên màn hình. Cách đo cũng phát triển từ đơn kênh - chỉ ghi nhận áp lực trong bàng quang và kém chính xác, sang đa kênh với việc ghi nhận thêm áp lực bụng và áp lực cơ bàng quang chính xác hơn và trung thực trong việc đánh giá hoạt động của bàng quang…
Với phép đo áp lực bàng quang đa kênh, người ta dùng 2 ống thông: 1 ống thông kích thước nhỏ (6F – 8F) và ở đầu thông có thiết bị cảm biến nhận cảm áp lực được đặt vào bàng quang qua ngả niệu đạo, đuôi ống thông gắn với bộ truyền dẫn để thể hiện áp lực trong bàng quang; 1 ống thông đặt vào trực tràng để ghi nhận áp lực bụng (xem hình 7a và 7b). Máy sẽ tự tính toán và ghi nhận trị số áp lực cơ bàng quang Pdet = Pves – Pabd rồi thể hiện trên màn hình (xem hình 8).
Hình 7a: Nguyên tắc của phép đo áp lực bàng quang đa kênh
Hình 7b: Máy đo niệu động lực học đa kênh
Hình 8: Phép đo áp lực bàng quang: (A) đơn kênh, chỉ ghi nhận Pves, (B) đa kênh, ghi nhận cả Pves, Pabd và suy ra Pdet
Các thông số được ghi nhận khi đo
Trong giai đoạn chứa đựng:
Cảm giác mắc tiểu của bàng quang: Bình thường cảm giác mắc tiểu ban đầu trong khoảng 150 – 250 ml, cảm giác mắc tiểu nhiều xảy ra sau 250 ml.
Dung tích chứa đựng của bàng quang: Bình thường trong khoảng 350 – 550 ml (Dưới 300 ml là dung tích bàng quang nhỏ; Trên 600 ml là dung tích bàng quang lớn). Vmax của nữ giới thường cao hơn nam giới, có lẽ do khả năng nhịn tiểu của phụ nữ tốt hơn.
Độ dãn nở của bàng quang:
- Với đa số các tác giả, độ dãn nở bàng quang được tính bằng ∆V/∆P của phase 2 trong giai đoạn chứa đựng. Theo đó độ dãn nở bàng quang ≥ 30 ml/cm H2O. Độ dãn nở bàng quang < 30 ml/cm H2O là bàng quang kém dãn nở.
- Một vài tác giả như Wall (1993) thì tính độ dãn nở bàng quang = ∆V/∆P trong khoảng thời gian 60 giây từ khi đạt Vmax, theo đó giá trị bình thường từ 20 – 100 ml/cm H2O.
Co bóp bất thường của cơ bàng quang: Bình thường cơ bàng quang hầu như không co bóp trong giai đoạn chứa đựng. Co bóp lớp cơ bàng quang với biên độ > 10 cm H2O trong giai đoạn chứa đựng được xem như tăng hoạt cơ bàng quang.
Trong giai đoạn tống xuất:
Ghi nhận sức co bóp và khả năng duy trì co bóp của cơ bàng quang, hiệu quả của tống xuất - đánh giá bằng lượng tiểu tồn lưu sau khi đi tiểu.
Bình thường, áp lực co bóp tối đa của cơ bàng quang Pdet max ≤ 50 cm H2O và sự co bóp duy trì trong lúc đi tiểu. Thường thì Pdet max ở nữ giới thấp hơn nam giới, do kháng lực dòng ra ở nam cao hơn nữ, khiến cơ bàng quang ở nam phải co bóp mạnh hơn để tống xuất nước tiểu hiệu quả.
Bình thường lượng tiểu tồn lưu sau đi tiểu là rất ít < 50 ml. Lượng tiểu tồn lưu > 100 ml được xem là có bế tắc đường tiểu dưới. Tồn lưu > 300 ml thường xuyên thì khám bụng sẽ ghi nhận triệu chứng cầu bàng quang trường cửu.
TÓM LẠI:
Trên đây, chúng tôi giới thiệu 2 phép đo căn bản nhất của niệu đông lực học, giúp cho những nhận định khái quát về các chức năng chứa đựng và tống xuất của đường tiểu dưới. Tuy nhiên, 2 phép đo trên là chưa đủ: còn rất nhiều các phép đo NĐLH, trong đó có sự phối hợp của nhiều phép đo để khảo sát sự đồng vận hay bất đồng vận của các thành phần của đường tiểu dưới bao gồm bàng quang, tam giác bàng quang – cổ bàng quang – cơ thắt trong niệu đạo, cơ thắt ngoài niệu đạo … Chúng tôi mong sẽ có dịp giới thiệu những phép đo NĐLH phức tạp hơn ở những bài viết sau.
Nguồn: PGS TS BS Nguyễn Văn Ân - Tạp chí sống khỏe - Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
Xem thêm các bài viết về bệnh tại đây.