Lão khoa

CHỨNG BÉO PHÌ Ở NGƯỜI CAO TUỔI CẦN LƯU Ý GÌ?

CHỨNG BÉO PHÌ Ở NGƯỜI CAO TUỔI CẦN LƯU Ý GÌ?

Chứng béo phì ở người cao tuổi là tình trạng ứ đọng quá mức, có tinh chất lan tỏa của tổ chức mỡ, dẫn đến tăng trọng lượng cơ thể quá 25% so với bình thường cho một tuổi và giới tính nhất định.

chứng béo phì ở người cao tuổi cần lưu ý gì?

Nguyên nhân gây bệnh

Về phương diện chuyển hóa, chứng béo phì bao giờ cũng do cung cấp calo quá mức so với nhu cầu năng lượng của cơ thể. Tuy nhiên cũng có những khác biệt giữa các cá thể trong việc sử dụng calo. Có người ăn nhiều calo nhưng không tăng trọng lượng. Trái lại cũng có người không ăn nhiều calo nhưng lại bị béo phì. Nguyên nhân cơ chế của sự khác biệt này, cho đến nay, vẫn chưa hoàn toàn được rõ. Có những gia đình có nhiều người béo phì hơn gia đình khác nhưng chưa thể nói được là do yếu tố di truyền, cần phân biệt hai loại béo phì:

  • Chứng béo phì xuất hiện khi đứng tuồi (thể phì đại)

Số lượng các tế bào mỡ không thay đổi. Sở dĩ có tăng cân là do ứ đọng mỡ ở từng tế bào. Kinh nghiệm cho thấy, đối với những trường hợp này, một chế độ ăn giảm cacbon hydrat có thể hạn chế được béo phì.

  • Chứng béo phì mắc từ lúc còn trẻ (thể tăng sản - phì đại)

Các tế bào mỡ ở đây đều phì đại, đòng thời số lượng cũng táng lên. Chế độ ăn ở đây không tác dụng; thế bệnh này nói chung khó chữa hơn.

Nguyên nhân do ăn uống quá mức so với nhu cầu của cơ thể là loại hay gặp hơn cả (95% trưòmg hợp). Bình thường, cảm giác no làm cho ta thôi ăn. Nguyên nhân ăn quá mức có thể do:

- Thói quen trong gia đình. Điều này giải thích vì sao có gia đình có nhiều người béo phì hơn gia đình khác. Mỗi gia đình lại có tập quán nấu nướng, khẩu vị và chế độ ăn.

- Trạng thái tâm lý luôn thấy thèm ăn và có cảm tưởng nếu ăn được nhiều thì đỡ được bồn chồn, đỡ đói, đỡ mệt.

- Giảm mọi hoạt động thể lực, trong khi đó lại không giảm ăn uống. Hoàn cảnh này hay gặp ở những người có tuổi ít vận động và ăn vẫn còn thấy ngon miệng. Cũng còn có thành kiến sai lầm là càng ăn được nhiều thì càng khỏe.

Những nguyên nhân khác ít gặp hơn

Bệnh suy giáp trạng cũng làm tăng cân do phù niêm.

Cần nhớ là trong chứng béo phì, chuyển hóa cơ sở (tính bằng calo cho mỗi mét vuông bề mặt cơ thể), cũng có thề giảm ở người béo phì do tăng diện tích ngoài da vì có lớp mỡ và lớp mỡ này lại tiêu thụ ít oxy. Vì vậy trên những người béo phì có chuyển hóa cơ sở thấp cũng chưa thể nghĩ ngay là do suy giáp trạng được.

Trạng thái bị hoạn cũng có lớp mỡ dưới da dày nhưng khu trú chung quanh háng và phần trên của đùi. Chứng insulin do u cũng có thể gây béo phì do ăn ngon miệng và tăng tạo mỡ từ hydrat cacbon; nhưng nguyên nhân này rất hiếm. Trong hội chứng Cushing và tổn thương hạ đồi cũng có sự phân bố lớp mỡ nhất là ở mặt, cổ và bụng nhưng các chi vẫn nhỏ.

Triệu chứng bệnh

Có thể đo độ dày nếp da trên cơ tam đầu ở đoạn giữa khuỷu tay và vai. Trung bình là 12,5mm ở nữ và 16,5mm ở nam. Những trị số quá 25% so với các tiêu chuẩn đó đều có thể coi là béo phì. Những định nghĩa đổ rất trừu tượng, phụ thuộc vào cơ bắp của đối tượng cũng như quan niệm thẩm mỹ, xã hội.

Cũng không nên bị ám ảnh bởi quan niệm trọng lượng lý tưởng, ở rất nhiều người tuy béo nhưng vẫn hoạt động bình thường, cảm giác dễ chịu và không có bệnh gì. Chứng béo phì có thể không có triệu chứng gì hoặc kèm theo khó thở khi ráng sức, mệt, không chịu được nóng, có rối loạn tiêu hóa, hay có thoái khớp nhất là khớp háng, đầu gối, cột sống lưng thắt lưng, tăng lipoprotein (kiểu VLDL và LDL). Chứng béo phì có thể chịu ảnh hưởng yếu tố tâm lý. Hay kèm theo tăng huyết áp động mạch và đái tháo đường.

Là một yếu tố nguy hại khi có mang hoặc khi phẫu thuật. Các thống kê đều cho thấy tỉ lệ tử vong cao hơn so với lô không béo phì trong mọi trường hợp bệnh và tai nạn.

Các trường hợp nặng đều có giảm thông khí phổi có thề dẫn đến suy tim và hội chứng Pickwick. Hội chứng Pickwick là tình trạng ngủ gà và có những lúc ngừng thở, xảy ra trên những người béo phì nặng. Sở dĩ có ngủ gà là do giảm thông khí kinh diễn dẫn đến giảm oxy và tăng anhydrite cacbonic thú’ phát sau suy yếu các cơ hô hấp, bị tăng gánh do trọng lượng lòng ngực của người béo phì. Bệnh nhân hay mất ngủ, trên cơ sở đó có những lúc ngừng thở (có thể 300 lần/đêm) — trạng thái buồn ngủ là thứ phát sau nhiều lần phải dậy ban đêm. Triệu chứng nổi bật là buôn ngủ ban ngày, kèm theo những cơn ngừng thở khoảng vài giây, đêm mất ngủ, ngáy ầm ĩ xen kẽ với ngừng thở. Không điều trị sẽ dẫn đến suy hô hâp kinh diên, rối loạn nhịp tim nặng.

Điều trị bệnh

Những thuốc nhằm làm cho gầy, gây chán ăn, các hóc môn và các hóa chất khác, thường không đem lại kết quả, có khi còn nguy hiêm.

Chế độ ăn

Những nguyên tắc cơ bản:

- Giảm lượng calo, không được làm mất cân bằng thề chât cũng nhu tâm lý người bệnh. Không nên áp dụng chế độ nhịn ăn kéo dài hoặc che độ dưới 1000 Kcal mỗi ngày. Chế độ khắc nghiệt như vậy có thê gây những biến chứng như trạng thái trầm cảm, cơn gút, có khi chết đột ngột do loạn nhịp tim.

- Giảm cung cấp calo dưới dạng gluxit và lipit. Protit có thê vân giữ như bình thường, không dưới 60g mỗi ngày. Phải giảm nhiệt lượng, khoảng 800 Kcal mới bớt được 100g trọng lượng với người béo phì.

- Muốn kê một chế độ ăn uống làm cho gầy bớt, không thê không năm kĩ bệnh nhân nhất là về phương diện dinh dưõmg từ trước đên nay, hoạt động nghề nghiệp, những hình thức giải trí, tình trạng tâm lý. Không thê chỉ dựa vào lời khai bệnh nhân theo mẫu đã in sẵn.

- Hoạt động thể lực. Nên khuyên bệnh nhân tập luyện để đảm bảo sức khỏe chung nhưng không hy vọng giảm được nhiều cân nặng vì việc đó đòi hỏi cường độ gắng sức quá lớn.

- Không được dùng các chất gây chán ăn, lợi niệu, hóc môn giáp trạng, một số thuốc có thể dùng dưới dạng thức ăn “Ballast” gồm các chất nhầy, chất gel thực vật, nhằm mục đích gây tình trạng đầy trong dạ dày. Các chất làm dịu vị (édulcorants) nhân tạo có thể được dùng. Người béo phì chỉ nên uống nước đun sôi để nguội. Trong bữa ăn và trong suốt cả ngày nên uống nhiều nước (1 đến 2 lít trong một ngày). Không dùng các thức uống có rượu. Dùng ít muối. Thời gian đầu khi dùng chế độ ăn gây gầy, bệnh nhân cần biết định lượng thức ăn và mỗi tuần phải cân một lần, buồi sáng lúc đói, không mặc quần áo.

Ví dụ chế độ ăn 1250 Kcal mỗi ngày.

Chế độ này gây gầy, áp dụng cho những người béo phì, hoạt động vừa phải. Chứa 85g protit, 40g lipit và 115g gluxit. Có đủ vitamin và muối khoáng.

- Điểm tâm:

Bánh mỳ

30g (hoặc cơm).

Sữa + cafe hoặc nước chè không đường

240g

5g

Bữa ăn nhẹ lúc 10 giờ.

 

Sữa chua 1 cốc

 

- Bữa trưa:

Súp thịt không mỡ

1 bát (hoặc canh)

Thịt nướng không mỡ

125g

Rau tươi        

150g

Khoai tây luộc

100g

Dầu thảo mộc

10g

Hoa quả

150g

- Bữa ăn nhẹ lúc 16 giờ:

Sữa

150g

- Bữa ăn chiều:         

Trứng

1 quả

Rau tươi

150g

Dầu thảo mộc

5g

Bánh mỳ

30g (hoặc cơm)

Hoa quả

150g

 

Ví dụ chế độ ăn 1500 Kcal/ngày.

Chế độ này cung cấp 90g protit, 170m gluxit và 50g lipit. Có đủ vitamin và muối khoáng.

- Điểm tâm:

Sữa + café hoặc nước chè không đường

250g.

5g

Bánh mỳ

40g

- Bữa trưa:

Súp thịt không mỡ

1 bát (hoặc canh)

Thịt nướng không mỡ

125g

Rau tươi

150g

Khoai tây luộc

100g

Dầu thảo mộc

10g

Hoa quả

150g

- Bữa chiều:

Trứng

1 quả

Rau tươi

200g

Pho mát hoặc sữa

40g hoặc 250g

Bánh mỳ

50g (hoặc cơm)

Hoa quả

200g

Chú thích:     

Điều trị chứng béo phì căn bản dựa vào chê độ ăn, nham giam cung cấp calo cho cơ thể dưới mức nhu cầu về nhiệt lượng.

Giảm calo hàng ngày xuống dưới 500 calo so với nhu cau nhiẹt lưưng sẽ làm giảm cân nặng đi 0,5kg mỗi tuần. Kết quả lệ thuộc vao tuoi ngươi bệnh (chứng béo phì ở người trẻ phải được chữa trị rất sớm) và quyết tâm của người bệnh. Những bệnh nhân quen ăn nhiêu và ăn ngon, rất khó thực hiện chế độ ăn này trong suốt cuộc đời. Đối với người trung niên nên cho chế độ ăn có 1200 calo mỗi

Chế độ nhịn ăn:

Chế độ này gây những nguy hiểm nhất định và chỉ nên áp dụng cho những bệnh nhân điều trị tại bệnh viện và chỉ dùng trong điêu kiện đặc biẹt (khi các phương pháp điều trị khác nhau đều không tác dụng). Chê độ nhìn ăn gây dị ứng hóa chất mỡ và protein, giảm natri máu và do đó có thê gay các tồn thương nặng ở gan (có trường hợp tử vong).

Các phương pháp khác

- Hoạt động thể lực

Trừ khi có các chống chỉ định rõ rệt, còn bao giò’ cũng phải phối hợp điều trị bằng vận động với điều trị bằng chế độ ăn giảm calo. Vận động thể lực làm tăng tiêu thụ năng lượng của cơ thể nhưng cũng có nhược điểm là lại làm ăn ngon miệng hơn. Cũng cần lưu ý là đi bộ 5km chỉ làm tăng tiêu thụ năng lượng khoảng 200 calo.

- Điều trị bằng tâm lý

Phương pháp này cũng cần để cho bệnh nhân thêm quyết tâm thực hiện chế độ ăn uống, nhưng thường ít kết quả và ít khi có thể thay đổi được tập quán ăn uống nếu phải sống chung trong một gia đình có chế độ ăn bất hợp lý. Giảm trọng lượng cơ thể chỉ là bền vững nếu thực hiện dần từng bước. Nếu tìm mọi cách đề gầy thật nhanh thì thường nguy hiểm và có đạt được kết quả nào thì cũng không bền, có những trường hợp bị rối loạn chuyển hóa nặng hoặc rối loạn tâm thần nhất là loại trầm cảm nặng.

- Các thuốc nên tránh dùng

Do nguyên nhân cơ chế béo phì chưa hoàn toàn sáng tỏ, nên cũng khó lòng mà có thuốc đặc trị chữa chứng này.

Các thuốc gây chán ăn thường không có tác dụng gì về lâu dài. Không những thế phần lớn các thuốc này có tính chất như amphetamine nên bệnh nhân dễ lạm dụng.

Cầm chú ý là tình trạng giảm chuyển hóa cơ bản ở bệnh nhân béo phì, rất ít khi do nguyên nhân giáp trạng vì vậy nếu không có những thăm dò khẳng định là có suy giáp thì không nên dùng tính chất giáp trạng vì có thể ức chế chức năng tuyến giáp.

Chỉ dùng lợi niệu khi có ứ nước. Nên nhớ là cho nhiều lợi niệu sẽ gây rối loạn nước điện giải có khi nặng.

- Điều trị ngoại khoa

Rất ít khi dùng đến và thường chỉ áp dụng trong những trường hợp béo phì nặng đe dọa tính mạng người bệnh (trọng lượng cơ thể quá 50kg so với trọng lượng lý tưởng) ở người dưới 40 - 50 tuổi.

Kĩ thuật nối hỗng tràng với hòi tràng tạo giảm hấp thụ nhân tạo-tỉ lệ tử vong cao. Nhiều biến chứng nặng như xơ gan, sỏi túi mật, viêm đa khớp, kém hấp thu, rối loạn thăng bằng nước điện giải.

Kĩ thuật chỉnh hình dạ dày, thu hẹp dung tích dạ dày. Ít biến chứng hơn phẫu thuật trên.

Chú thích: Chứng béo phì có thề do bệnh ăn vô độ nguyên nhân thần kinh (boulimie nerveuse). Bệnh nhân lúc nào cũng thèm ăn không cưỡng lại đưọ’c, không biết đói, ăn vào cũng không thấy ngon. Có cảm giác xấu hồ và bất lực do có thói ăn như vậy. Các cơn án vô độ có thề kèm theo nôn và trầm cảm nặng.

* Bài viết tham khảo từ Bộ Y Tế

Tham khảo thêm bài viết NGUYÊN NHÂN NGƯỜI GIÀ DỄ BỊ GÃY XƯƠNG VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA để biết thêm thông tin

Đang xem: CHỨNG BÉO PHÌ Ở NGƯỜI CAO TUỔI CẦN LƯU Ý GÌ?

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng