
Giãn phế nang là gì?
Giãn phế nang: là tình trạng phế nang và tiểu phế quản tận cùng bị giãn liên tục, vĩnh viễn không hồi phục, kèm theo phá hủy cấu trúc, tổ chức liên kết đàn hồi của phổi, làm cho thể tích phế nang tăng lên tạo thành những nang chứa khí trong phổi.
Bệnh thường gặp ở người nhiều tuổi, nhất là nam. Hậu quả cuối cùng là suy hô hấp nặng, suy tim phải, ở người, có khoảng 30.000 tiểu phế quản tận cùng và 300 triệu phế nang tạo thành một diện tích của phổi khoảng 80m2. Giãn phế nang thường xảy ra từ tiểu phế quản tận cùng. Nguyên nhân thường gặp ở người có tuổi là viêm phế quản mạn, hen phế quản lâu ngày. Một số ít trường hợp là do lao phổi, bệnh bụi phổi, biến dạng lồng ngực, viêm nội mạc động mạch phổi, xơ phổi tuổi già, một số ít trường hợp có yếu tố gia đình.
Những nguyên nhân trên làm tắc hẹp lòng phế quản, dần dần vách phế quản bị suy yếu, nhất là các tiểu phế quản tận cùng. Trong thì thở vào chủ động không khí vào được, nhưng ở thì thở ra, lại bị trở ngại làm cho khí không ra được, áp lực phế nang tăng, phế nang giãn và thể tích phế nang tăng. Hiện tượng ứ đọng không khí trong lòng ngực gây ra sự rối loạn về thông khí và trao đổi khí của phổi; Màng lưới mao mạch bị thưa thớt, có hiện tượng tắc mạch, hẹp lòng mao mạch dẫn đến tăng áp lực động mạch phổi, cuối cùng là tâm phế mạn.
Lâm sàng
Bệnh bắt đầu từ lúc nào khó biết, phát hiện được là do tình cờ’ kiểm tra sức khỏe hàng loạt hoặc khó thở sau một gắng sức, tràn khí màng phổi tự phát, đợt bội nhiễm phổi, suy hô hấp cấp.
Triệu chứng cơ năng
Khó thở: lúc đầu chỉ khó thở khi gắng sức, dần dần khó thở khi làm việc nhẹ rồi khó thở cả khi nghỉ ngơi, khó thở ra. Thở ra ngắn, giảm đi ở tư thế nằm ngủ, tiếng nói ngắn bị ngắt quãng.
Ho: xuất hiện sau khó thở, ho khan hoặc khạc ra chất nhầy. Nếu cỏ viêm phế quản mạn thì ho trước khó thở, ho khạc đờm đặc hoặc có mủ.
Đau vùng thượng vị nhất là khi sờ do cơ bụng hoạt động nhiều.
Triệu chứng thực thể
Tim: lúc đầu tím môi rồi tím các đầu chi, xuất hiện rõ khi có tâm phế mạn.
Biến dạng lồng ngực: đường kính trước sau của lồng ngực tăng lên, ít di động có khi không di động theo nhịp thở, lồng ngực tròn như hình thùng.
Khám phổi: gõ rất trong mất vùng đục của gan, khó xác định vùng đục của tim, rung thanh giảm, khó sờ mỏm tim. Nghe rì rào phế nang giảm tiếng tim thứ hai
Cận lâm sàng
X-quang: lồng ngực to ra, xương sườn nằm ngang, khoảng liên sườn rộng, đỉnh phổi bị đẩy lên cao, cơ hoành bị đẩy xuống dưới, góc tâm hoành tù, có khi là một góc 90°.
Hình tim bé và dài, thỏng xuống, cung động mạch phổi nổi, khoảng sáng sau tim rộng ra, nhu mô phổi quá sáng nhất là vùng ngoại biên.
Điện tâm đồ: giảm điện thế ở các chuyển đạo ngoại biên, sóng p nhọn (P phế) trục điện tim xu hướng phải, phì đại thất phải, mỏm tim ra sau.
Xạ hình phổi: nếu dùng đồng vị phóng xạ để ghi hình phổi, ta thấy có sự phân bố khí và máu không đồng đều ở trong phổi.
Thăm dò chức năng phổi:
Thể tích cặn (RV) và thể tích cặn chức năng (F.R.C) táng lên rõ rệt. Có biểu hiện rối loạn thông khí hỗn hợp, VEMS giảm, vc giảm, sức cản đường thở tăng. Thay đổi tỉ số V/Q° (V: Thông khí phế nang, Q°: tuần hoàn phổi), nói lên có rối loạn phân bố khí và máu trong phổi. Khả năng khuếch tán khí của phổi giảm, PaO2 giảm, PaCO2 tăng .
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định dựa vào
Biến dạng lồng ngực, gõ quá trong, rì rào phế nang giảm, rung thanh giảm; X-quang: khoang liên sườn giãn rộng, xương sườn nằm ngang, phổi quá sáng; thề tích khí cặn tăng, khuếch tán khí của phổi giảm nặng; chụp lấp lánh phổi thấy sự phân bố máu ỏ’ phổi giảm.
Chẩn đoán giai đoạn
Giai đoạn 1: (không có triệu chứng gì).
Chưa có biểu hiện lâm sàng.
Giai đoạn 2: (Biểu hiện suy thông khí).
Khó thở kịch phát hoặc thường xuyên, dấu hiệu lâm sàng của biến dạng lồng ngực, hội chứng tắc nghẽn, tăng thể tích khí cặn, giảm dung tích sống.
Giai đoạn 3: (Thiếu oxy máu).
Gầy, mệt mỏi, tím, đa hồng cầu. Giảm PaO2, lúc gắng sức hoặc nghỉ ngơi, giảm khuếch tán khí của phổi (D.L.O2)
Giai đoạn 4: (Tăng CO2 trong máu).
Rối loạn tinh thần, ý thức vận động. PaCO2 tăng lúc gắng sức, lúc nghỉ ngơi, CO2 toàn phần huyết tương tăng - toan hô hấp.
Giai đoạn 5: (biến chứng tim tâm phế mạn).
Lúc đầu tim còn bù, sau mất bù.
Chẩn đoán phân biệt
Hen phế quản kéo dài. Tràn khí màng phổi, lao phổi - kén hơi phổi - suy tim do nguyên nhân khác.
Tiến triển bệnh và cách xử trí
Tiến triển
Giãn phế nang là một bệnh của người có tuổi, tính chất mạn tính, kéo dài hàng chục năm, theo các giai đoạn như đã nói trên. Trong quá trình tiến triển của bệnh có thể có những biến chứng như:
Đợt suy hô hấp cấp do bội nhiễm của viêm phế quản mạn. Có thể tử vong trong đợt suy hô hấp cấp.
Nhiễm khuẩn phổi: viêm phổi, phế quản phế viêm, lao phổi, áp xe phổi.
Tràn khí màng phổi, hay gặp, có khi rất nặng, chết đột ngột.
Suy tim: suy tim phải, rồi suy tim toàn bộ.
Xử trí
Đặc biệt chú ý đợt bội nhiễm gây suy hô hấp cấp;
Dẫn lưu phế quản; Nếu bệnh nhân khạc đờm nhiều, đặc, nên để bệnh nhân nằm đầu thấp, ở tư thế thích hợp, sao cho đờm dãi được dẫn lưu ra ngoài. Hút phế quản bằng cách cho catheter qua nội khí quản hoặc lỗ mở khí quản, rồi dùng máy hút.
Có thể cho các thuốc như Eucalyptus, iodua Kali, Benzoat Natri khi có nhiều đờm đặc.
Cho các thuốc làm giãn phế quản như theophylin, Aminophylin kết hợp với corticoid.
Cho thở oxy trong các đợt cấp.
Kháng sinh trong đợt bội nhiễm.
Điều trị bệnh lâu dài phải chú ý đến phục hồi chức năng hô hấp nhất là thở bụng khi có suy tim cho thuốc trợ tim.
về mặt phòng bệnh cần loại bỏ các yếu tố kích thích như thuốc lá thuốc lào, thay đổi môi trường tránh ô nhiễm, điều trị tốt các ổ nhiễm khuẩn ở đường hô hấp trên.
Xem thêm các nội dung về sức khỏe, bệnh lý tại đây: