Lão khoa

Hội chứng trầm cảm ở người già cần điều trị kịp thời

Hội chứng trầm cảm ở người già cần điều trị kịp thời

1. Biểu hiện lâm sàng

Hội chứng trầm cảm ở người già có biểu hiện sau:

Cảm xúc tình cảm: buồn rầu ủ rũ, chán chường lo âu, phiền muộn, đau khổ, sợ hãi bi thương, sầu não, bi quan, hốt hoảng, hoài nghi, mất tin tưởng, mất chỗ dựa, mất phương hướng, thấy cuộc đời toàn màu đen tối, mặc cảm tự ti, thấy cuộc đời không đáng sống.

Các chức năng tâm lý ỳ trệ, bị ức chế, nhất là sức chú ý, trí nhớ, tư duy, khả năng lĩnh hội, sáng tạo phê phán, thích nghi, tiếp thu.

hội chứng trầm cảm ở người già

 

Vận động hạn chế: ít đi lại, ít nói năng, ngồi một chỗ hoặc nằm suốt ngày, sầu thương than vãn, buồn khổ.

Những biến đổi về rối loạn tâm trí đó thường kèm theo rối loạn chức năng của nhiều cơ quan nội tại khác như: đau đầu, mất ngủ, đau ngực, đau vùng trước tim, rối loạn nhịp tim chức năng, đau cơ khớp, biến đổi huyết áp, tăng tiết mồ hôi, rối loạn và suy giảm bản năng tình dục; có khi những rối loạn này lại nổi lên hàng đầu khiến cho thầy thuốc phải đi tìm những nguyên nhân thực thể khác.

2. Nguyên nhân

Ngày nay, hội chứng trầm cảm được chẩn đoán khá nhiều, có khi quá mức, làm thành một “bệnh của thế kỉ”. Riêng đối với tuổi già, có nhiều nguyên nhân tác động và có thể xếp thành hai loại chính: thực thể và tâm lý xã hội.

Nguyên nhân thực thể

Làm suy yếu sức khỏe, giảm chức năng sinh lý. Với tuổi già, các giác quan nhất là thị giác và thính giác suy giảm nặng nề và nhanh chóng làm người già bị hạn chế mọi giao tiếp do mất nguồn thông tin “nghe nhìn”. Sức khỏe yếu dần, những cuộc đi xa, những cuộc thăm viếng, các hoạt động khoa học, xã hội, sản xuất cũng giảm, càng làm hạn chế việc nâng cao kiến thức ngang tầm thời đại. Có người tìm quên lãng giải sầu bằng uống rượu, hút thuốc liên miên, nghiện ngập lại càng làm nhiễm độc thêm.

Nguyên nhân tâm lí xã hội

Nhận cảm đau đớn về tâm lý đối với sự suy giảm thể chất và tinh thần, đến từ từ nhưng chắc chắn và khó tránh được. Dần dần một phần cơ thể và tâm trí “ra đi” và cái “tôi” dần dần hao hụt đổi khác. Tình trạng đó gây nên nhiều mặc cảm, đặc biệt là mặc cảm tự ti.

Cảm giác bất lực, đuối sức trước những khó khăn cuộc sống, nhất là khó khăn về kinh tế và sinh hoạt, sự biến đổi về phong tục tập quán trật tự khác trước đã đem lại tâm trạng bi quan, do không thể thích nghi được với cuộc sống hiện tại.

Xung đột giữa các thế hệ xảy ra ngày một nhiều và trầm trọng, nhất là ở những gia đình lớn có nhiều thế hệ cùng chung sống hoặc trong xã hội mà tâm lý giữa trẻ vói già có nhiều khác biệt. Sự cảm thấy mất dần quyền lực, vị trí trong gia đình và xã hội càng góp phần làm tổn thương tình cảm. Khá rõ nét ở người về hưu thiếu sự chuẩn bị trước.

Cảm giác cô đơn là một cảm giác đau đóm, đối với cả những người cô đơn thực sự, sống một mình không nơi nương tựa, lẫn những người “cô đơn trong đám đông” nhất là ở các thành phố thuộc các nước phát triển.

Cuối cùng, sự cảm nhận mình là thừa, là vô ích, gánh nặng cho gia đình và xã hội trở nên mối dày vò trường diễn. Sự xuất hiện hội chứng trầm cảm phụ thuộc khá nhiều vào thái độ của xã hội đối với họ. Nhiều nhà xã hội học cho rằng có thể đánh giá trình độ văn minh của một nước, một xã hội qua phong tục tập quán đổi với người có tuổi.

3. Các thể lâm sàng

Thể đơn thuần

Triệu chứng chính là ức chế hoạt động. Người bệnh không muốn hoạt động và hoạt động thường kém hiệu quả, ít năng suất, kém tập trung, cảm xúc âm tính. Người bệnh cảm thấy bất lực và cần được động viên săn sóc thông cảm.

Thể sững sờ

Triệu chứng chính là ức chế tâm thần vận động ở mức cao, không nói, không ăn, không vận động, nét mặt buồn bã, đau khổ, tuyệt vọng.

Thể lo âu

Người bệnh hốt hoảng, lo lắng căng thẳng gần như kinh hoàng, bồn chồn đứng ngồi không yên. Có khi tự hủy hoại thân thể, la hét, khóc lóc, van xin.

Thể hoang tưởng

Trên nền tảng một trạng thái trầm cảm, xuất hiện những ý nghĩ tự sát, rất hay xảy ra và thường với những phương tiện dễ kiếm, những hình thức khó kiểm soát. Không ít trường hợp bỏ đi lang thang, sống vật vạ, dễ bị tai nạn và bệnh nhiễm trùng.

4. Điều trị trầm cảm người già

Nguyên tắc chung
  • Đưa người bệnh ra khỏi tình trạng trầm cảm về hoạt động trí tuệ lẫn cảm xúc.
  • Giúp cho người bệnh tự có những hoạt động vận động để duy trì sự sống, tự quản lý sinh hoạt, giảm nhẹ sự trông nom săn sóc của gia đình và xã hội.
  • Tạo cho người bệnh một nếp sống, sinh hoạt chủ động để thực hiện việc điều trị dùng thuốc cũng như điều trị không dùng thuốc.
  • Phát hiện kịp thời và ngăn chặn những đợt vượng phát trầm cảm nặng, nhất là ý nghĩ và hành vi tự sát.

Điều trị bằng thuốc

Ngoài những loại thuốc sử dụng để nâng đỡ cơ thể, điều hòa các chức năng, điều trị các chứng bệnh chuyên biệt, ở đây nêu chủ yếu các loại thuốc chuyên dùng chống trầm cảm. Loại thuốc hướng tâm thần này có tên chung là thuốc chống trầm cảm.

điều trị hội chứng trầm cảm ở người già

 

a. Tác dụng

Các thuốc chống trầm cảm có tác dụng chung:

  • Làm giảm cường độ những cảm xúc âm tính.
  • Gây được một cảm giác dễ chịu, thích hoạt động.
  • Đưa người bệnh ra khỏi tình trạng ỳ trệ.
  • Kích thích hoat động các chức năng tâm trí.

Trong từng trường hợp, tùy theo triệu chứng của người bệnh, nhất là khi có nhiều biểu biện lo lắng, bồn chồn không yên, thì rất nên phối hợp các loại thuốc bình thản. Trong trường hợp có rối loạn giấc ngủ, nên phối hợp với thuốc ngủ nhẹ.

b. Phân loại thuốc chống trầm cảm

Thuốc chống trầm cảm thuộc nhóm dẫn chất ba vòng về cấu trúc hóa học.

+ Dẫn chất của Imino-dibenzyl:

(Tofranil)

Triméprimin (Surmonitil).

Désipramin (Pertofran).

+ Dẫn chất của dibenzo cycloheptene:

Amitriptyline (Laroxyl, Elavil).

Các loại thuốc ức chế men IMAO:

Iproniazid (Marsilid).

Nialamid (Niamid).

Phenelzine (Nardelzine)

Ngoài ra, còn có các loại thuốc thuộc nhóm khác nhưng cũng có tác dụng chống trầm cảm, có thể dùng riêng biệt hoặc phối họp. Levopromazin (Nozinan, Tizercin).

Cacbonat lithium: dùng trong loại loạn tâm thần hưng - trầm cảm.

c. Nguyên tắc dùng thuốc chống trầm cảm ở người già

Người già thường không chịu được liều thuốc cao và kéo dài. Nên sử dụng những liều thuốc thấp hơn so với người trẻ (1/2 hoặc 1/3 liều) và dùng rải rác nhiều lần. Thời gian dùng thuốc nên ngắn.

Dùng thuốc cần theo dõi các phản ứng của cơ thể, nhất là dị ứng rất hay gặp.

Một số trường hợp đặc biệt, có thể xảy ra tình trạng hưng phấn quá mức hoặc tăng động. Nên giảm liều thuốc hoặc tạm ngừng hoặc phối hợp thêm các loại thuốc bình thản, thuốc gây ngủ.

Không được phối họp các thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng với các loại thuốc IMAO vì sẽ gây nên những biến cố nguy hiểm như buồn nôn, tụt huyết áp, có khi trụy tim mạch.

Thời gian dùng thuốc để thám dò vào khoảng 2 tuần lễ. Nếu quá thời gian đó mà không thấy bệnh thuyên giảm, nên thay thuốc hoặc điều chỉnh liều lượng.

Trong thời gian dùng thuốc, vẫn có thể có những đợt vượng phát nguy hiểm, dẫn đến nguy cơ tự sát, tử vong. Trong trường hợp đó nên tiến hành xử trí cấp cứu và dùng sốc điện.

d. Các thuốc chổng trầm cảm thường dùng

e. Imipramin (Tofranil, Melipramin)

Được dùng trong lâm sàng lần đầu tiên năm 1957, về dược lý có tính chất kháng cholin, gần giống atropin, giảm huyết áp, có tác dụng đối với loại trầm cảm nội sinh, trầm cảm thoái triển tuổi già, các biến đổi khí sắc tuổi già, các loại trầm cảm có tính chất, tâm căn, ám ảnh.

Tác dụng biểu hiện tương đối chậm sau 7 đến 10 ngày có khi 14-15 ngày sau khi bắt đầu dùng thuốc. Tác dụng cao nhất và rõ rệt nhất ở tuần lễ thứ ba. Liều lượng khởi đầu với người già nên thấp, từ 50mg (chia làm 2 lần) tăng dần lên 100mg/ngày. Nên phối hợp với Levopromazin (Nozine -Tizerein), khi có triệu chứng kích thích không yên, bồn chồn khó chịu, kém ngủ. Levopromazin thường dùng vào buổi tối với liều lượng 25mg.

Trong trường hợp lo lắng, hoảng hốt, bồn chồn, căng thẳng, nên phối hợp với một trong các thuốc: Librium (10-20mg trong ngày), Valium (4- 10mg/ngày), Meprobamat (0,4-0,8g/ngày). Các thuốc này đều uống vào buổi tối.

Tác dụng phụ: nói chung, Tofranil dễ dung nạp, ít tác dung phụ. Thường là giảm tiết (khô miệng) chóng mặt, tim đập nhanh, run tay chân. Đặc biệt theo dõi tụt huyết áp. Không nên dùng cho người đang bị bệnh gan thận, tim mạch nặng, đang bị glôcôm, động kinh.

f. Amitryptiline (Laroxyl-Elavil)

Amitryptiline có những tác dụng dược lý giống như Imipramin, chống trầm cảm mạnh và nhanh, ưu điểm là ít gây tác dụng phụ như Imipramin, không gây cơn co giật dù dùng với liều cao, vì vậy người động kinh cũng dùng được không làm mất ngủ, có tác dụng an dịu mạnh hom Imipramin cho nên có thể dùng trong các thể trầm cảm lo âu, ám ảnh, kích thích vật vã. Phạm vi tác dụng rộng hơn. Có thể dùng cả trong các thể trầm cảm tâm căn, nghi bệnh, có các rối loạn tâm sinh, rối loạn thần kinh thực vật.

Liều dùng: khởi đầu 50mg/ngày, tăng dần lên 75-150mg/ngày. Khi thuốc đã có tác dụng, dùng liều duy trì và giảm dần.

Điều trị không dùng thuốc

a. Sốc điện

Từ khi có liệu pháp hóa dược, sốc điện ít được dùng hom. Tuy vậy trong những trường hợp trầm cảm kéo dài mà dùng thuốc không kết quả hoặc trường hợp người bệnh tìm mọi cách dễ tự sát, thì có thể dùng sốc điện.

Sau khi tình trạng ổn định hơn, cần tiếp tục dùng thuốc. Dùng 1 ngày 1 lần trong 5-7 ngày, khi cần thiết có thề dùng tới 2-3 lần trong ngày. Với người già phải thận trọng về mặt kĩ thuật vì có thể gây gẫy răng, gãy xương, trụy mạch, ngừng thở. 

b. Liệu pháp tâm lí cá nhân

Giải thích hợp lý: dựa trên những đặc điểm tâm lý tuổi già, cần làm cho người bệnh hiểu được những triệu chứng của bệnh, phân tích tác hại, đồng thời hướng dẫn củng cổ được ý chí đấu tranh với bệnh. Đặc biệt cần thiết đổi vói người có ý tự sát. Kết quả tùy thuộc vào trình độ diễn đạt truyền cảm, vào lòng nhân ái và nhiệt tình của thầy thuốc. Một phần nữa cũng lệ thuộc vào mức độ hoàn cảnh và khả năng tiếp thu của người bệnh.

c. Liệu pháp tâm lí tập thể

Tạo môi trường tâm lý xã hội phù họp với việc trông nom, săn sóc người già, chủ yếu là đạo đức đối với con người, duy trì những phong tục tập quán tốt đẹp quý trọng người già.

Liệu pháp lao động: tạo điều kiện cho người già trầm cảm tham gia lao động vừa sức, phù hợp với sở thích.

Liệu pháp giải trí theo ý muốn: văn học, nghệ thuật, âm nhạc, sưu tầm, du lịch, chơi cờ.

Liệu pháp hoạt động học tập, sinh hoạt trong các câu lạc bộ. Hoạt động thể dục tập thể, dưỡng sinh.

Nói chung, điều trị trầm cảm nên tiến hành tại nhà, tại gia đình. Tuy nhiên, trong những trường hợp có những mâu thuẫn lớn trong gia đình hoặc hoàn cảnh gia đình có khó khăn thì có thể điều trị tại các trại dưỡng lão.

Xem thêm bài viết khác: Thiểu năng tuần hoàn não: Nguyên nhân và cách điều trị

 

Đang xem: Hội chứng trầm cảm ở người già cần điều trị kịp thời

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng