Lão khoa

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở NGƯỜI CAO TUỔI VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở NGƯỜI CAO TUỔI VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
Tai biến mạch máu não là sự xuất hiện đột ngột tổn thương thần kinh tại chỗ do rối loạn cục bộ tuần hoàn não. Danh từ đột ngột chỉ một khoảng thời gian cổ thề từ vài giây đến vài giờ, thậm chí trong một số trường hợp rất hiếm, vài ngày.
Nguyên nhân có thể nhiều nhưng rối loạn tuần hoàn não vẫn do ba biến đổi hình thái gây nên: hẹp lòng động mạch, tắc bít động mạch, vỡ động mạch.

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở NGƯỜI CAO TUỔI

Rối loạn hoạt động não có thể biểu hiện bằng nhiều triệu chứng thần kinh khác nhau tùy theo vị trí, diện tích vùng tổn thương, tốc độ quá trình bệnh lí và nguyên nhân gây nên.
Các động mạch não được nhiều mạch nối liên hệ vói nhau nên một động mạch bị tắc không nhất thiết bao giờ cũng phải cỏ những triệu ng lâm sàng kèm theo.
1. TÌNH HÌNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1.1. Tỉ lệ tử vong
a. Trong các thống kê bệnh tật
  • Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, tai biến mạch máu não được coi là 1 trong 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất (của 54 trên 57 nước có thống kê). 
  • Trên 40 nước, tai biến mạch não được coi là 1 trong 3 nguyên nhân gây tử vong cao nhất. Trên 57 nước có thống kê, tử vong do tai biến mạch não chiếm 11,3% tổng số tử vong, chỉ đứng sau bệnh mạch vành và ung thư các loại, ở châu Âu và Bắc Mỹ, tỉ lệ đó là 12,5%; ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, tỉ lệ đó là 8,2%.
b. Đối với bệnh tim mạch
  • Tỉ lệ tử vong do tai biến mạch não chiếm 20 - 30% tổng sổ tử vong tim mạch ở các nước mà tai biến mạch não được coi là 1 trong 3 nguyên nhân tử vong cao nhất (đối với nữ, tỉ lệ đó là 30 - 40%).
c. Liên quan với tuổi
  • Tỉ lệ tử vong do tai biến mạch não rất thấp ở người dưới 25 tuổi, tỉ lệ đó tăng nhanh với tuổi, trung bình tàng gấp ba qua mỗi thập niên (Hình 1).
  • Đối với hai giới ở lứa tuổi 55 - 64 tỉ lệ cao nhất (quá 3 phần nghìn mỗi năm) ở Nhật Bản, Trung Quốc... và thấp nhất (dưới 0,9 phần nghìn mỗi năm) ở Thụy Điển, Hà Lan, Thụy Sĩ, Ba Lan...
d. Tỉ lệ tử vong do tai biến mạch não có xu hướng tảng lên
  • Tỉ lệ tử vong do tai biến mạch não có xu hướng tăng lên ở nhiều nước qua thông báo của Tổ chức Y tế thế giới. Tỉ lệ tăng nhiều ở Hồng Kông, Singapore, Bỉ, tăng ít ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu úc. 
  • Nguyên nhân có thể do thay đồi về cấu trúc tuổi ở nhiều nước.
1.2. Tỉ lệ mắc bệnh
  • Tỉ lệ mắc tai biến mạch não ở Mỹ khoảng 2,6 phần nghìn so vói toàn dân và 21 phần nghìn so vói người từ 65 tuồi trở lên. Ở Nhật Bản với người từ 40 tuổi trờ lên tỉ lệ mắc tai biến mạch não là 7,9 phần nghìn trong đó 12,6 phần nghìn đổi với nam và 4,7 phần nghìn với nữ.
  • Tỉ lệ bệnh mới phát hiện trung bình từ 0,2 đến 0,5% hàng năm ở Mỹ; 0,74% ở Nhật Bản.
1.3. Đột quỵ não
Qua thống kê của nhiều nước về nguyên nhân gây đột quỵ não, huyết khối mạch não hay gặp nhiều (40-60%) rồi đến xuất huyết não (20-40%); xuất huyết màng não và tắc mạch não ít gặp hơn (dưới 10%).
a. Liên quan giữa đột quỵ và thiếu máu cục bộ nhất thời ở não
  • Trên những người thiếu máu cục bộ nhất thời ở não được theo dõi trong 4 năm đã có từ 2% đến 15% bị đột quỵ não.
  • Khoảng 4-5% bệnh nhân thiếu máu cục bộ nhất thời ở não bị chết trong năm, trong đó một nửa là do nhồi máu cơ tim, và khoảng 12% do nhồi máu não.
b. Tử vong do đột quỵ não
  • Khoảng một phần tư trường hợp chết trong vòng 24 giờ và khoảng một nửa chết trong 2-3 tuần. Nguyên nhân chết nhanh chủ yếu do xuất huyết não (82%) nhiều hơn do nhồi máu não (42%).
  • Trong những người sống sót qua cơn đột quỵ, thì khoảng một nửa chết trong vòng 4-5 năm. Nguyên nhân chết lúc này thường do tai biến mạch não tái phát, nhồi máu cơ tim, suy tim, viêm phổi.
  • Đối với người bị xuất huyết màng não thì hiện tượng xấu hơn: 35% chết trong năm. Vói những người sống sót qua năm đầu chỉ có 25% sống được quá 5 năm.
c. Đột quỵ tái phát
  • Đối với nhồi máu não từ một phần tư đến một phần ba trường họp bị tái phát trong vòng 2-5 năm sau cơn đầu tiên. Tỉ lệ tử vong của mỗi lần tái phát cũng giống như tỉ lệ tử vong của cơn đầu tiên.
  • Đối với xuất huyết màng não, 80% tái phát trong vòng 6 tuần, nhiều nhất ở hai tuần đầu và xuất huyết tái phát có tỉ lệ tử vong cao hơn lần xuất huyết đầu tiên.
d. Tỉ lệ tàn phế sau đột quỵ não
  • Do sự theo dõi có khó khăn, thống kê của các nước cho những số liệu khác nhau. Trong những người đã bị cơn đột quỵ não, từ 20 đến 50% có thề trở lại hoạt động, nhưng từ một phần tư đến hai phần ba trở thành tàn phế hoặc phải giảm nhiều mọi hoạt động. Sự phục hồi chức năng thường gặp trong vòng một tháng đối với một phần ba bệnh nhân, còn với đa sổ bệnh nhân chỉ có phục hồi chức năng chút ít sau 6 tháng.
2. Phân loại tai biến mạch não
2.1. Theo giải phẫu bệnh
  • Xuất huyết dưới màng nhện
  • Xuất huyết trong mô não
  • Hoại tử do thiếu máu cục bộ não
Đối với hoại tử và xuất huyết não thường phải chi tiết hom; theo Tồ chức Y tế Thế giới cần chú ý thêm:
a) Đối với hoại tử do thiếu máu cục bộ ở não (nhồi máu, nhũn não do thiểu năng tuần hoàn):
Không hẹp hoặc tắc mạch
  • Có hẹp hoặc tắc động mạch
  • Có hẹp hoặc tắc tĩnh mạch
  • Có tổn thương mao mạch
  • Có tổn thương động mạch, tĩnh mạch và mao mạch.
b) Đối với xuất huyết não
  • Không nêu rõ mạch nào
  • Do động mạch
  • Do tĩnh mạch
  • Có tổn thương mao mạch
  • Có tổn thương động mạch, tĩnh mạch và mao mạch
2.2. Theo lâm sàng
Những triệu chứng chính giúp cho chẩn đoán ba loại tai biến mạch máu não nói trên có thề tóm tắt trong bảng sau đây:

BẢNG 1 TAI BIÉN MẠCH MÁU NÃO Ở NGƯỜI GIÀ

Trong công tác khám bệnh cần chú ý:
a. Tiền sử
Hỏi kĩ về các biểu hiện tai biến mạch não trước, đặc biệt là thiếu máu não nhất thời; chú ý các bệnh tim do thiếu máu cục bộ, các biểu hiện của mạch ngoại vi. Chú ý tiền sử gia đình đối với các bệnh của mạch.
b. Khám thực thể

Lưu ý: các dấu hiệu thần kinh, phát hiện các tiếng thổi khi nghe các động mạch; tình trạng mạch; tần số và nhịp tim; huyết áp động mạch hai bên, chủ yếu là chi trên chú ý các u vàng nếu có, tình trạng đáy mắt.
c. Xét nghiệm cận lâm sàng
Trong xét nghiệm chú ý: protein niệu, đường niệu, đưòmg huyết, cholesterol máu, lipid máu, điện di lipoprotein. Đối với cận lâm sàng, cần thiết làm điện tâm đồ, lưu huyết đồ não, nhấp nháy đồ não...
d. Chụp động mạch não
Nên làm, trừ trường hợp tuổi cao, sức khỏe quá kém. cần thiết trong xuất huyết dưới màng nhện, xuất huyết não, vữa xơ động mạch có huyết khối, nhất là ở các động mạch ngoài sọ nhằm mục đích phẫu thuật.
3. ĐIỀU TRỊ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO

  • Cần phân biệt giai đoạn cấp và giai đoạn mạn của tai biến mạch não.
  • Danh từ “giai đoạn cấp” chỉ thời gian khoảng ba tuần kể từ khi tai biến bắt đầu. “Giai đoạn mạn” bắt đầu sau ba tuần đó. cần đặc biệt chú ý đến hiện tượng thiếu máu não nhất vì có thể báo hiệu tai biến mạch máu não nặng sẽ xảy ra.
  • Tai biến cấp tính đòi hỏi điều trị nội hoặc ngoại khoa cấp cứu và tổ chức chăm sóc thật tốt. Việc phục hồi chức năng phải được tiến hành sớm, ngay từ đầu và cần tránh mọi thái độ thiếu tích cực trong công tác điều trị.
  • Cần có chẩn đoán chính xác thật sớm. Vì vậy, phải để bệnh nhân ở viện mới đủ phương tiện chẩn đoán và chăm sóc tích cực.
  • Để có thể điều trị được hiệu quả, cần biết đột quỵ thuộc loại nào và do nguyên nhân gì. Đối với xuất huyết cần xem xét đó là xuất huyết trong não hay ngoài não (nghĩa là ở dưới màng cứng hay trên màng cứng). Đối với hoại tử não do thiếu máu cục bộ, cần xác định xem nguyên nhân là do máu cục, hay do hẹp, do tắc các mạch máu trong sọ hay ngoài sọ.
  • Tất cả các bệnh viện lớn cần có những tồ chức đầy đủ trang thiết bị và nhân viên kĩ thuật chuyên xử lí tai biến mạch não (“trung tâm tai biến mạch não” theo đề nghị của Tổ chức Y tế thế giới). Nhân viên kĩ thuật của tố chức này phải gồm một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ nội khoa, một bác sĩ tim mạch, một bác sĩ phục hồi chức năng, một bác sĩ X-quang, một phẫu thuật viên thần kinh, một bác sĩ lí liệu. Nếu có những dấu hiệu viêm thần kinh, cần xin ý kiến của chuyên khoa tâm thần. Đó là sơ đồ tổ chức tối ưu theo đề nghị của Tổ chức Y tế thế giới. Tùy từng điều kiện cụ thể, có thể thay đổi đôi chút cho phù họp. Ở nhiều nước, đã thành lập các trạm sơ cứu tai biến mạch não, có trang thiết bị cần thiết và có nhân viên đã được huấn luyện để phục vụ cho loại cấp cứu này. số nhân viên này có thề phục vụ cấp cứu tại nhà và ngay trong khi di chuyền đến bệnh viện đặc biệt đổi với chức năng tuần hoàn và hô hấp.

3.1. Giai đoạn cấp
a. Chăm sóc chung

  • Trong những ngày đầu, phần lớn bệnh nhân ở trạng thái hôn mê hoặc sững sờ, do đó cần được theo dõi chặt chẽ. Đặc biệt, cần đảm bảo lưu thông các đường không khí, đảm bảo thăng bằng nước và điện giải, đặt ổng và thông bàng quang. Các bệnh nhân già thường hay có nhiễm khuẩn tiết niệu từ trước hoặc do thông tiểu gây nên. cần thanh toán nhiễm khuẩn đó nhanh chóng và rút ống thông càng sớm càng tốt khi điều kiện cho phép.
  • Khi hôn mê hoặc trạng thái sững sờ, cần đặc biệt chú ý đảm bảo thông khí và tránh tắc đường hô hấp. Tình trạng ứ CO2 sẽ làm tăng áp lực nội sọ. Sự đảm bảo thông khí là một vấn đề có tính chất quyết định vì nếu thông khí bị trở ngại, bệnh nhân có thể chết, mặc dù tổn thương có thể chưa lan tới trung tâm hô hấp. Tổn thương của trung tâm này có thể dẫn đến tăng hoặc giảm thông khí và biến đổi pH máu, nồng độ điện giải trong máu. Cân thiết phải đánh giá tình trạng thăng bằng nước, điện giải, đo các khí trong máu động mạch.

b. Cải thiện tuần hoàn não

  • Nguyên tắc: điều trị phải nhằm cải thiện tưới máu ở vùng thiếu máu cục bộ, làm giảm phù não và chống lại sự hình thành máu cục. Khả năng tưới máu ở tất cả các tổ chức, kể cả tổ chức não, phụ thuộc vào áp lực của dòng máu (nghĩa là sự chênh lệch áp lực động - tĩnh mạch) và sức cản của mạch. Trong não, sức cản đó phụ thuộc vào khẩu kính và độ dài của mạch, vào áp lực trong sọ và độ quánh của máu. Điều trị phải nhằm làm giảm một hoặc nhiều yếu tố đã làm tăng sức cản ở vùng thiếu máu cục bộ. 
  • Áp lực động mạch: huyết áp phải giữ ở mức tối ưu. Nếu huyết áp quá thấp, nghĩa là khi huyết áp tâm thu dưới 90mmHg, cần phải truyền tĩnh mạch một thuốc làm tăng huyết áp và bổ sung, hồi phục thể tích máu cho đủ. Một số bệnh nhân cao huyết áp có thề cần một huyết áp lớn hom so với bình thường một chút (ví dụ huyết áp tâm thu 160mmHg).
  • Trong trường hợp phân vân, phải theo dõi bằng đo áp lực tĩnh mạch trung tâm để quyết định lượng dịch truyền, huyết áp động mạch và làm điện tâm đồ.
  • Khi đột quỵ kèm theo tăng huyết áp nhiều, có thể điều trị hạ huyết áp một cách thận trọng (ví dụ cho lợi niệu thải natri, resecpin hoặc metyl- dopa) để đề phòng cơn cao huyết áp (bệnh não do tăng huyết áp, xuất huyết do tăng huyết áp). Khi điều trị hạ huyết áp phải tiến hành một cách thận trọng, đưa xuống khoảng 170/100mmHg và phải theo dõi kĩ trên lâm sàng. Cần tránh dùng các loại liệt hạch làm huyết áp tụt quá nhanh và quá mức có thể nguy hiểm, do đó nên tránh áp dụng cho các bệnh nhân vữa xơ động mạch chỉ có áp tâm thu cao, còn áp tâm trương vẫn thấp.
  • Thuốc co giãn mạch: đối với cơn đột quỵ, việc dùng các thuốc giãn mạch hiện có, còn đang được bàn cãi: vì cho các thuốc giãn mạch ngoại vi có thể làm hạ áp lực và giảm lưu lượng máu trong não.
  • Một số tác giả cho thấy việc ngắt quãng cacbogen 5% đã làm tăng lưu lượng não toàn thể và qua đó, lưu lượng mạch nối đến các vùng thiếu máu cục bộ cũng tốt hơn.
  • Cũng có tác giả cho việc tăng thông khí thụ động là cần thiết vì sẽ gây co mạch ở các vùng bình thường của não, do đó đưa máu đến được vùng thiếu máu cục bộ.

- Các dung dịch ưu trương: trong tai biến mạch não, có hiện tượng tăng áp lực nội sọ, thường do phù não. Do đó, nhiều tác giả dùng các dung dịch ưu trương để giảm áp lực nội sọ (manitol 20%, socbitol 40%, glyxerol). Dung dịch urê ít được dùng vì có thể gây tăng huyết áp; vả lại tác dụng hạ áp lực nội sọ chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn. Các thuốc lợi niệu thải muối mạnh, tiêm tĩnh mạch có thể làm giảm áp lực nội sọ tốt hơn.
- Có thể dùng dextran trọng lượng phân tử dưói 60.000 để điều trị hoại tử do thiếu máu cục bộ không có xuất huyết, có chảy máu trong não hoặc có nguy cơ chảy máu ở nơi khác vì thuốc này cũng có tác dụng chống đông. Ở người có suy tim trái, thuốc có thể gây phù phổi cấp.

- Truyền nhỏ giọt tĩnh mạch 500ml dextran trong 1 giờ làm tăng lưu lượng máu não, chủ yếu bằng cách giảm độ quánh của máu vì làm máu loãng hom. Cho dextran dài ngày, 500ml mỗi lần 12 giờ đã làm giảm tử vong và tổn thương thần kinh do làm giảm độ quánh của máu và có thể làm giảm độ dính tiểu cầu, giảm phù não.
- Dung dịch Ringer (NaCI 0,6%-KCI 0,04%-CaCI2 0,02%, Nalactat 0,3%) - Rhéomacrodex nhỏ giọt tĩnh mạch 500 - 700 ml/ngày.
- Cocticoit: cũng có tác giả dùng nhưng phần lớn thấy không có tác dụng gì đối vói việc giảm phù não trong nhồi máu não cấp.
- Điều trị các rối loạn nhịp tim phối họp: lưu lượng dòng máu qua não phụ thuộc vào lưu lượng tim. Nếu có suy tim thì phải điều trị tích cực bằng digitan và các loại thuốc kinh diễn khác. Cũng cần lưu ý là nhồi máu cơ tim cấp thường xảy ra lúc đột quỵ não, do đó phải được phát hiện và điều trị sớm.
Khi rối loạn dẫn truyền và rối loạn nhịp tim thì phải điều trị tích cực (thuốc men, máy chống rung, máy tạo nhịp...).
c. Thuốc chống đông

  • Trên một số bệnh nhân bị thiếu máu cục bộ nhất thời ở não, việc điều trị chống đông dài ngày và được theo dõi chặt chẽ đã hạn chế và làm chậm sự xuất hiện tai biến nặng. Trong trường hợp rung nhĩ kinh diễn, cho thuốc chống đông cũng đã hạn chế được hình thành máu cục gây tắc mạch não.
  • Khi đột quỵ xảy ra, cho thuốc chống đông không có hiệu quả gì đối với quá trình bệnh lí mạch não. Tuy nhiên, cho thuốc chống đông cũng có tác dụng làm giảm xuất hiện huyết khối ở tĩnh mạch và tắc phổi.
  • Hiện nay chỉ dùng cho TBMMN do tắc mạch của bệnh nhân trẻ bị hẹp hai lá - Đối với TBMMN người già không dùng.
  • Cần tôn trọng các chống chỉ định của liệu pháp chống đông, nhât là tăng huyết áp vì có thề gây xuất huyết nội sọ.

d. Các biện pháp điều trị khác

  • Điều trị hạ sốt: nếu có sốt cao cần tìm cách hạ sổt vì sốt có thể làm tăng nhu cầu ôxy ở não. Có thể cho các thuốc hạ sốt, nhưng trong những trường họp sốt nặng, có thể dùng phương pháp làm lạnh từ ngoài.
  • Liệu pháp oxy cao áp: dùng ôxy cao áp có thề làm tăng áp lực trong não. Tác dụng thường ngắt nhưng rõ rệt.
  • Các phương pháp điều trị triệu chứng khác: nếu xuất hiện các cơn co giật (10% bệnh nhân tắc mạch não) cần cho thuốc chống co giật. Những bệnh nhân có thiều năng tuần hoàn đốt sống - nền, cần cho thuốc chống chóng mặt (Agyrax, Serc, Duxil, stugeron...). Khi có xuất huyết não hoặc dưới mạng nhện những thuốc như pethidin cỏ thể dùng để chống nhức đầu, clopromazin để giảm đau.

e. Phục hồi chức năng

  • Mục tiêu của mọi biện pháp điều trị không những là phải cứu sống người bệnh, mà còn là tạo điều kiện cho họ có thể có được cuộc sống độc lập. Điều trị có thể coi là đạt kết quả tốt khi mà bệnh nhân có thể trở lại hoạt động trong xã hội. Mọi người trong kíp điều trị phải nắm vững nguyên tắc đó.
  • Ngay ngày đầu, mặc dầu bệnh nhân có thể còn chưa tỉnh, vẫn phải tìm mọi cách để tránh hiện tượng co cứng và loét do các mảng mô hoại tử. Trước hết phải tránh mọi tư thế không đúng của các chi liệt. Thầy thuốc, y tá, kĩ thuật viên lí liệu phải làm ít nhất ba lần trong ngày, các cử động thụ động, nhẹ nhàng ở khớp.
  • Nếu bệnh nhân tỉnh, phải yêu cầu vận động các chi không liệt. Khác với nhiều bệnh nhân khác, bệnh nhân đột quỵ thường hay suy sụp tinh thần và rất thiếu nghị lực đề luyện tập. Vì vậy phải luôn luôn động viên bệnh nhân và tranh thủ sự hỗ trợ của gia đình, có thể nói sự phục hồi cơ thể phụ thuộc rất nhiều vào sự phục hòi của tâm thần.
  • Phải tập luyện cho bệnh nhân dùng những chi không liệt để vận động các chi bị liệt.
  • Khi tình trạng cho phép, bệnh nhân phải tập ngòi; lúc đầu ở bờ giường và có thể tựa, về sau tập dần ngồi trên ghế. Ngồi trên ghế, bệnh nhân có thề tập thêm nhiều động tác khác, rồi tập đứng để cả sức nặng cơ thể lên chi liệt, như vậy sẽ tránh được hiện tượng co cứng. Những động tác ở tư thế đứng phải có thầy thuốc đứng bên.
  • Đến giai đoạn này, bệnh nhân có thể đến được buồng tập thể dục, có thây thuôc hướng dẫn theo dõi. Các động tác cần ngắn gọn nhưng lặp lại nhiều lần. Buồng tập thể dục phải là nơi sinh hoạt chủ yếu của các bệnh nhân tai biến mạch não đã qua giai đoạn cấp.

g. Điều trị ngoại khoa

  • Chỉ định với tổn thương làm hẹp lòng động mạch cảnh và đoạn đầu của động mạch dưới đòn. Phẫu thuật sửa chữa đoạn hẹp của động mạch cảnh đã đem lại một số kết quả khả quan bằng cách cải thiện tuần hoàn bàng hệ, giảm nguy cơ tắc mạch do các tổn thương vữa xơ động mạch, dự phòng các tai biến mới.
  • Chống chỉ định mổ khi toàn trạng quá kém, có nhiều bệnh nặng, có rối loạn thần kinh nặng.
  • Những chỉ định phẫu thuật khác (xuất huyết trong não tự phát gây bọc máu, vỡ túi phồng mạch não, túi phòng động tĩnh mạch) ít có dịp làm ở người già vì những bệnh gây ra thường ở người trẻ tuổi.

3.2. Giai đoạn mạn tính
Biến chứng viêm phế quân phổi và huyết khối tắc mạch trước kia rất hay gặp, nhưng từ khi áp dụng phương pháp vận động sớm, các biến chứng đã giảm.
a. Các biểu hiện tàn phế

  • Liệt nửa thân, liệt nhẹ nửa thân (90% ở thề mạn tính tàn phế).
  • Giảm cảm giác nửa thân (50% kèm theo liệt nửa thân).
  • Bán manh (10-15%)
  • Mất ngôn ngữ (1/3-1/4 trường hợp).
  • Liệt nhẹ giả hành tủy
  • Mất trí, rối loạn tâm thần.
  • Trạng thái trầm cảm
  • Động kinh.

b. Vấn đề phục hồi chức năng

  • Thời gian phục hồi chức năng: thường phải từ 6 - 12 tháng.
  • Các động tác tập luyện nên ngắn gọn nhưng lặp lại nhiều lần; mỗi ngày có thể tập 2 - 3 lần.
  • Nhóm phục hồi chức nàng cần có một bác sĩ chuyên khoa điều khiển. Cần có sự giúp đỡ của chuyên khoa thần kinh, lí liệu pháp, vận động liệu pháp, tâm lí y học; huấn luyện viên về ngôn ngữ; các y tá, gia đình bệnh nhân.
  • Bản thân bệnh nhân phải là nhân vật chính trong nhóm phục hổi chức năng này. Không thể có kết quả nếu bệnh nhân không cộng tác một cách tích cực, tự giác. Bệnh nhân phải được hướng dẫn kĩ về kĩ thuật thực hiện và hiểu đầy đủ về ý nghĩa của mỗi động tác trong việc luyện tập phục hồi chức năng, cố gắng tìm hiểu những ý thích của bệnh nhân để lồng các môn tập luyện vào cho thích hợp.

c. Vấn đề tổ chức điều trị châm sóc

  • Ngay từ lúc đầu bệnh đã cần phải được chẩn đoán và xử trí ngay. Vì vậy, bệnh nhân phải được điều trị tại bệnh viện, có đủ phương tiện cấp cứu, có thể ở khoa nội hoặc khoa thần kinh hay phẫu thuật thần kinh. Các biện pháp phục hồi chức năng cần được thực hiện sớm.
  • ở giai đoạn sau (thường bắt đầu vài ngày hoặc vài tuần sau đột quỵ), bệnh nhân vẫn cần được điều trị, nhưng chuyển sang cơ sở phục hòi chức năng hoặc một bệnh viện điều trị dài ngày. Ngay các bệnh viện điều trị dài ngày cũng phải được trang bị đầy đủ thiết bị để đảm bảo công tác phục hồi chức năng.
  • Sau vài tuần hoặc vài tháng, bệnh nhân có thể ra viện và được theo dõi điều trị ngoại trú. Phải có phương tiện vận chuyển phục vụ cho mục đích này. Tại một số nước có điều kiện, có thể tổ chức các bệnh viện ban ngày, bệnh viện ban đêm hoặc trung tâm sau điều trị. Cũng có những bệnh nhân bị tàn phế nặng, khi vào bệnh viện dài ngày ròi tiếp tục ở luôn đấy, không trở về nhà được. Đối với những bệnh nhân có thể về nhà được thì điều kiện kinh tế gia đình là một yếu tố rất quan trọng; nhiều gia đình cần có sự giúp đỡ của xã hội.

4. DỰ PHÒNG TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
4.1. Điều trị tăng huyết áp

  • Điều trị tăng huyết áp đã làm giảm tỉ lệ tai biến mạch não. Tại nhiều nước, thống kê của Tổ chức Y tế thế giới cho biết, với những người tăng huyết áp (huyết áp tâm trương trung bình từ 105 đến 114 mmHg), theo dõi từ 1 đến 5 năm thấy tỉ lệ tai biến mạch não là 11% so với không điều trị và 1% với số có điều trị huyết áp. Một thống kê khác cho thấy ở người cao huyết áp tỉ lệ bị biến chứng nặng trong 5 năm đã từ 55% còn 18% nhờ điều trị hạ áp.
  • Tránh những điều kiện gây co*n rối loạn vận mạch, như thay đồi nhiệt độ, áp suất quá nhanh, uống rượu, quá căng thẳng thần kinh.

4.2. Điều trị xơ vữa động mạch

  • Clofibrat (cloropheroxy isobutyrat)
  • Pyridinol cacbamat (Angioxine - Anginine, Prodectine)
  • Axit metyl paracloro benzoyl phenoxyl propionic (Proxetofen)
  • Axit nicotinic (lipidium)
  • Cholestyramin (Questran)

4.3. Đối với những người có biểu hiện não thoáng qua
- Những biểu hiện thiếu máu cục bộ thoáng qua có thề báo hiệu tai biến mạch não sắp đến trong thời gian ngắn như: thoáng liệt nửa người, nửa mặt, mắt, nói khó, thoáng mất trí, chóng mặt, nhức đầu, bất thường buồn nôn, điếc thoáng qua, mờ mắt thoáng qua, ngất hay thoáng ngất. Tất cả các triệu chứng đều xảy ra và khỏi một cách nhanh chóng nhưng có giá trị báo hiệu lớn.
- Đối với người có những biểu hiện đó cần cho nằm điều trị, theo dõi để có thể nhanh chóng xử lí khi tai biến xảy ra. Phải xử trí ngay các biểu hiện thoáng qua đó.
- Ngoài những thuốc an thần, cỏ thể áp dụng thuốc chống đông hay cho uống axit axetyl salyxylic khoảng 3 viên mỗi ngày, chia làm 3 lần.
- Thuốc cải thiện tuần hoàn não:

  • Xanthinol nicotinat (Complamin) tiêm bắp 300mg/ngày; hoặc rỏ giọt tĩnh mạch 1,50 g pha trong 500ml glucoza 5%.
  • Vincamin tiêm bắp 5mg/ngày.
  • Cinnarizin (Sureptil) uống 25mg, ngày 2-3 lần.
  • Theophylin
  • Chống phù não: dung dịch glucoza ưu trương, manitol, furosemit, magie sunfat.
  • Chống co giật: diazepam, clorazepam.

Xem thêm bài viết tương tự: NHỒI MÁU CƠ TIM Ở NGƯỜI CAO TUỔI VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

Đang xem: TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO Ở NGƯỜI CAO TUỔI VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng