
1. Nghiên cứu lâm sàng 1
Mục đích:
Để đánh giá tác dụng của axit béo omega-3 đối với bệnh khô mắt.
Các kết quả cần đo: chất nền metalloproteinase-9 (MMP-9), thời gian vỡ nước mắt (TBUT), Chỉ số bệnh bề mặt mắt (OSDI), nhuộm giác mạc huỳnh quang, điểm Schirmer, giai đoạn rối loạn chức năng tuyến meibomian (MGD) và chỉ số omega-3 ở những đối tượng bị khô mắt và MGD đã được xác nhận.
Phương pháp:
Nghiên cứu được tiến hành một cách ngẫu nhiên, có đối chứng. Các đối tượng được ngẫu nhiên nhận 4 viên nang mềm chứa tổng cộng 1680 mg axit eicosapentaenoic / 560 mg axit docosahexaenoic hoặc đối chứng 3136 mg axit linoleic, hàng ngày trong 12 tuần. Các đối tượng được đo ở thời điểm ban đầu, tuần thứ 6 và tuần thứ 12 về độ thẩm thấu của nước mắt, TBUT, OSDI, nhuộm giác mạc huỳnh quang, và xét nghiệm Schirmer có gây mê. Thử nghiệm MMP-9 và chỉ số omega-3 được thực hiện lúc ban đầu và sau 12 tuần.
Kết quả
Độ thẩm thấu của nước mắt tương tự nhau ở thời điểm ban đầu ở cả nhóm omega-3 (326,2 ± 15,8 mOsm / L) và nhóm đối chứng (326,0 ± 15,4 mOsm / L). Tại thời điểm theo dõi 6 tuần, đo độ thẩm thấu màng nước mắt giảm đáng kể so với ban đầu ở nhóm omega-3 (−16,8 ± 2,6 mOsm / L) so với nhóm chứng (−9,0 ± 2,7 mOsm / L, P = 0,042 ), tiếp tục giảm so với ban đầu lúc 12 tuần ở nhóm omega-3 (−19,4 ± 2,7 mOsm / L) so với nhóm đối chứng (−8,3 ± 2,8 mOsm / L, P = 0,004).
Các mục tiêu phụ đánh giá ảnh hưởng của omega-3 được tái ester hóa đối với điểm chỉ số omega-3, TBUT, MMP-9, điểm triệu chứng, độ nhuộm giác mạc, điểm Schirmer khi gây mê và giai đoạn MGD. Lúc ban đầu, điểm chỉ số omega-3 tốt hơn một chút ở nhóm đối chứng so với nhóm omega-3. Tại thời điểm 12 tuần, có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê ( P <0,001) về điểm chỉ số omega-3 ở nhóm omega-3 tăng 3,0 từ 4,2 ± 1,0 lên 7,2 ± 2,7 ở tuần 12; không có sự thay đổi đáng kể nào được đo lường về điểm số chỉ số omega-3 trong nhóm đối chứng từ ban đầu (4,9 ± 1,4 đến 5,1 ± 1,7) ở tuần 12.
TBUT cho thấy sự cải thiện đáng kể trong 12 tuần ở nhóm omega-3. Tại thời điểm 6 tuần, có xu hướng cải thiện TBUT ở nhóm omega-3, không có ý nghĩa thống kê ( P = 0,126), nhưng sự khác biệt giữa các nhóm là có ý nghĩa ở lần khám 12 tuần ( P = 0,002) TBUT tăng từ 4,8 ± 3,0 giây lên 8,3 ± 4,8 giây, thay đổi từ mức cơ bản 3,5 ± 0,5 giây ở nhóm omega-3 so với 4,6 ± 2,0 giây lên 5,8 ± 3,1 giây, thay đổi so với mức cơ bản 1,2 ± 0,5 giây trong nhóm kiểm soát ( P = 0,002).
Cả hai nhóm đều có điểm số triệu chứng OSDI giống nhau ở thời điểm ban đầu Ở tuần thứ 12, điểm số triệu chứng OSDI ở nhóm omega-3 giảm từ 32,4 ± 19,2 xuống 15,5 ± 11,0 so với 27,1 ± 22,9 xuống 22,0 ± 19,3 ở nhóm đối chứng ( P = 0,002). Cả hai nhóm đều giảm các triệu chứng sau 6 tuần, nhưng sự thay đổi này giữa 2 nhóm không có ý nghĩa ( P = 0,285) sau 6 tuần.
Mức độ nhuộm huỳnh quang giác mạc trung bình (đo bằng thang nhuộm Oxford) lúc ban đầu là 1,2 ± 1,2 với nhóm omega-3 so với 1,6 ± 1,0 đối với nhóm đối chứng. 86/105 đối tượng đã hoàn thành nghiên cứu có điểm nhuộm ≤2 ở mức cơ bản. Sau 6 tuần theo dõi, nó giảm xuống 0,7 ± 0,8 ở nhóm omega-3 so với 1,1 ± 1,0 ở nhóm giả dược. Nó tiếp tục giảm ở tuần 12 xuống 0,6 ± 0,7 ở nhóm omega-3 so với 1,0 ± 1,0 ở nhóm giả dược. Không có sự khác biệt đáng kể nào được đo lường trong sự thay đổi so với ban đầu cho điểm Schirmer ( P = 0,263 ở tuần thứ 6, P = 0,780 ở tuần 12; omega-3 so với nhóm đối chứng) hoặc giai đoạn MGD ( P = 0,757 ở tuần thứ 6, P = 0,268 ở tuần 12; omega-3 so với nhóm đối chứng) tại bất kỳ chuyến thăm nghiên cứu nào.
Kết luận
Trong thử nghiệm lâm sàng này, việc bổ sung bằng đường uống với các axit béo omega-3 được tái ester hóa đã cải thiện cả các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh khô mắt trong khoảng thời gian 12 tuần.
Những kết quả này làm tăng thêm khối lượng dữ liệu chứng minh mối tương quan giữa mức độ omega-3 và chứng khô mắt. Một trong những nghiên cứu đầu tiên chứng minh tầm quan trọng của việc tiêu thụ axit béo omega-3 đối với DED, cho thấy tỷ lệ bảo vệ khỏi bệnh khô mắt liên quan đến việc tiêu thụ cá phụ thuộc vào liều lượng. Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra sự cải thiện DED và giảm viêm khi tiêu thụ axit béo omega-3 [1].
2. Nghiên cứu lâm sàng 2
Nghiên cứu đã điều tra thái độ của các bác sĩ đo thị lực và các hành vi thực hành tự báo cáo đối với axit béo omega-3 đối với sức khỏe của mắt, cũng như kiến thức và hiểu biết về những rủi ro và lợi ích tiềm ẩn của chúng. Một cuộc khảo sát trực tuyến ẩn danh đã được phân phối cho các chuyên gia đo thị lực ở Úc và New Zealand. Các câu hỏi bao gồm nhân khẩu học của người hành nghề và phương thức hành nghề; thực hành tự báo cáo và khuyến nghị liên quan đến chế độ ăn uống, bổ sung dinh dưỡng và axit béo omega-3 đối với bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (AMD) và bệnh khô mắt (DED); và kiến thức của người hành nghề về axit béo omega-3.
Trong số 206 cuộc khảo sát được bao gồm, hầu hết những người được hỏi (79%) cho biết khuyến nghị bệnh nhân của họ nên tiêu thụ axit béo omega-3 để cải thiện sức khỏe mắt của họ. 68% số người được hỏi cho biết khuyến nghị thực phẩm giàu omega-3 để kiểm soát AMD, trong khi 62% cho biết khuyến nghị bổ sung omega-3.
Hầu hết những người được hỏi (78%) cho biết khuyến nghị thực phẩm hoặc chất bổ sung giàu omega-3 cho DED. Đối với DED, liều lượng bổ sung omega-3 được khuyến nghị là trung bình 1000–2750 mg mỗi ngày
Kết luận, các bác sĩ đo thị lực thường đưa ra các khuyến nghị lâm sàng về chế độ ăn uống và axit béo omega-3.
3. Tài liệu tham khảo
[1] Epitropoulos, Alice T.; Donnenfeld, Eric D.; Shah, Zubin A.; Holland, Edward J.; Gross, Michael; Faulkner, William J.; Matossian, Cynthia; Lane, Stephen S.; Toyos, Melissa; Bucci, Frank A.; Perry, Henry D. (2016). Effect of Oral Re-esterified Omega-3 Nutritional Supplementation on Dry Eyes. Cornea, 35(9), 1185–1191.
[2] Zhang, Alexis Ceecee; Singh, Sumeer; Craig, Jennifer P.; Downie, Laura E. (2020). Omega-3 Fatty Acids and Eye Health: Opinions and Self-Reported Practice Behaviors of Optometrists in Australia and New Zealand. Nutrients, 12(4), 1179
Xem thêm bài viết tại đây.
Viết bình luận