Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vừa chấp thuận chỉ định mở rộng cho vaxneuvance, phòng ngừa bệnh phế cầu khuẩn xâm lấn ở trẻ từ 6 tuần đến 17 tuổi.
1. Bệnh phế cầu khuẩn là gì?
Bệnh phế cầu khuẩn là một bệnh nhiễm trùng phổ biến và thường là nhẹ, nhưng đôi khi có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong.
Vi khuẩn Streptococcus pneumoniae (S. pneumoniae), còn được gọi là phế cầu khuẩn, gây ra bệnh phế cầu khuẩn.
Có hai loại bệnh phế cầu khuẩn chính: Không xâm lấn và xâm lấn (trong đó bệnh phế cầu khuẩn không xâm lấn ít nghiêm trọng hơn).
Bệnh phế cầu khuẩn xâm lấn (IPD) là một tình trạng đe dọa tính mạng và xảy ra bên trong cơ quan chính hoặc trong máu của người. Một số ví dụ về IPD là: Nhiễm trùng huyết (nhiễm trùng máu), viêm phổi, viêm màng não (tình trạng viêm xảy ra ở các màng não, gồm ba màng bao phủ não và tủy sống) có thể dẫn đến các biến chứng thần kinh lâu dài.
Các nhiễm trùng khác có thể xảy ra là: Viêm tủy xương (ảnh hưởng đến xương), viêm khớp nhiễm trùng (nhiễm trùng ở khớp)…
Tất cả IPD đều cần điều trị y tế khẩn cấp. Trẻ em dưới 2 tuổi đặc biệt dễ bị IPD. Ngoài ra, người già và những người mắc bệnh lý tiềm ẩn có nguy cơ cao dẫn đến các biến chứng nguy hiểm hơn những người khác.
Tiêm phòng có thể ngăn ngừa nhiều bệnh do phế cầu khuẩn và các biến chứng tiềm ẩn có thể phát sinh.
2. Những lưu ý khi dùng vaccine ngừa phế cầu
Với chỉ định mở rộng này, vaxneuvance là vaccine liên hợp phế cầu khuẩn đầu tiên được phê duyệt trong gần một thập kỷ để giúp bảo vệ trẻ em chống lại bệnh phế cầu khuẩn xâm lấn.
Không dùng vaxneuvance cho những người có phản ứng dị ứng nghiêm trọng (ví dụ: sốc phản vệ) với bất kỳ thành phần nào của vaxneuvance hoặc với độc tố bạch hầu.
Một số người có vấn đề về miễn dịch bao gồm cả những người đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, có thể bị giảm phản ứng miễn dịch với vaxneuvance.
Ngưng thở sau khi tiêm đã được quan sát thấy ở một số trẻ sinh non. Do đó, việc tiêm phòng cho trẻ sinh non cần dựa trên tình trạng sức khỏe của trẻ và những lợi ích cũng như nguy cơ có thể xảy ra.
Các phản ứng có hại thường gặp nhất được báo cáo ở trẻ em được chủng ngừa với một loạt bốn liều lúc 2, 4, 6 và 12 đến 15 tháng tuổi là: Khó chịu, buồn ngủ, đau hoặc/và ban đỏ tại chỗ tiêm, sốt, giảm cảm giác thèm ăn, tê cứng tại chỗ tiêm và sưng tấy tại chỗ tiêm…
Các phản ứng có hại thường gặp nhất được báo cáo ở trẻ em và thanh thiếu niên từ 2 đến 17 tuổi được tiêm chủng với một liều duy nhất là: Đau tại chỗ tiêm, đau cơ, sưng chỗ tiêm, ban đỏ tại chỗ, mệt mỏi, nhức đầu…
Chủng ngừa bằng vaxneuvance có thể không bảo vệ tất cả những người nhận vaccine.
Nguồn: Trịnh Xuân Nguyên – Báo Sức khỏe và đời sống
Xem thêm thông tin các bài viết tương tự về bệnh tại đây.