Sức khỏe sản phụ và thai nhi

BỆNH SỞI VÀ NHỮNG THÔNG TIN CẦN BIẾT

BỆNH SỞI VÀ NHỮNG THÔNG TIN CẦN BIẾT

BỆNH SỞI LÀ GÌ?

Sởi là bệnh nhiễm siêu vi qua đường hô hấp, gặp chủ yếu ở trẻ em, với những đặc điểm như sốt, ho, sổ mũi, mắt đỏ và phát ban đỏ dạng dát sẩn. Nguyên nhân gây bệnh là do nhiễm phải một loại siêu vi RNA thuộc họ Paramyxoviridae (chủng Morbillivirus, trong đó có siêu vi sởi) chỉ sống trên người. Siêu vi này lây truyền rất nhanh theo đường hô hấp qua dịch tiết nhiễm siêu vi của mũi - miệng.

NGUY CƠ BÙNG PHÁT DỊCH SỞI TẠI VIỆT NAM

Từ cuối tháng 12/2013 đến nay, bệnh sởi ở trẻ em đang liên tục bùng phát và tăng nhanh tại nước ta. Theo Cục Y tế dự phòng, bệnh sởi đã xuất hiện ở 24 tỉnh thành. Trong tháng 1/2014 có 241 trường hợp bệnh sởi. Trong tháng 2/2014, tại TPHCM, trung bình mỗi ngày tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 có khoảng 30 trẻ điều trị sởi và tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 có 24 trẻ điều trị sởi.

Đến ngày 17/2, cả nước ghi nhận có 7 trẻ tử vong v. sởi. Phần lớn trẻ em bị sởi trước 5 tuổi.

Mùa bệnh sởi ở nước ta thường xảy ra từ tháng 1 đến tháng 5. Nguyên nhân bệnh sởi tăng cao năm nay có thể liên quan đến thời tiết đông xuân lạnh khác thường và trẻ chưa được tiêm phòng sởi đầy đủ. Tuy nhiên, giống như trên thế giới, gần đây sởi thỉnh thoảng thường hay bùng phát tại Việt nam. Gần nhất là tháng 2/2009, ở miền Bắc có 505 trường hợp với tỷ lệ biến chứng cao, trong đó Hà Nội có đến 160 ca.

BỆNH SỞI

CÁC BIẾN CHỨNG CỦA SỞI

Các biến chứng khá phổ biến thường thấy ở bệnh nhân sởi là tiêu chảy, viêm phổi (trực tiếp do siêu vi sởi hay do nhiễm vi khuẩn thứ phát), viêm tai giữa, viêm sớm do siêu vi xâm nhập trực tiếp gây tổn thương nhu mô hoặc viêm muộn do cơ chế miễn dịch làm hủy myelin, loét giác mạc. Ở trẻ suy dinh dưỡng, bệnh sởi gây suy giảm miễn dịch dẫn đến các biến chứng nói trên nặng hơn, có thể hoạt hóa bệnh lao hay gây khô mắt do thiếu vitamin A. Cá biệt hơn, có bệnh nhân sau khi mắc sởi 8 – 10 năm thường bị viêm toàn bộ n.o xơ hóa tăng dần gây thoái triển hành vi trí tuệ dần dẫn đến tử vong. Các biến chứng ở người lớn mắc bệnh sởi thường nặng hơn so với ở trẻ em. Tỷ lệ tử vong trong các năm của thập niên 1920 vào khoảng 30% ở những người viêm phổi do sởi. Từ năm 1987 đến năm 2000, tỷ lệ tử vong do sởi ở Hoa Kỳ là 0,3%. Ở các nước kém phát triển, do suy dinh dưỡng và tr.nh độ y tế thấp, tỷ lệ này chiếm đến 28%. Ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (ví dụ AIDS), tử vong khoảng 30%. Có thể nói, bệnh sởi nguy hiểm trước hết do các biến chứng của sởi thường nặng hoặc sởi xảy ra ở các trẻ suy dinh dưỡng, hay do những bất cập trong điều trị (như thiếu điều trị nâng đỡ).

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA BỆNH SỞI

Theo quy luật chung của các bệnh nhiễm trùng, bệnh sởi tiến triển qua 4 giai đoạn:

- Thời kỳ ủ bệnh: không triệu chứng, từ khi nhiễm siêu vi sởi đến khi có triệu chứng đầu tiên khoảng 8 - 12 ngày.

- Thời kỳ viêm long: kéo dài 3 ngày, với sốt nhẹ, ho, sổ mũi, mắt đỏ. Trong miệng có thể thấy ở niêm mạc má đối diện răng hàm dưới các nốt trắng xám, lớn bằng hạt cát (gọi là các nốt

Koplik). Các nốt nội ban này (hay ban niêm mạc) xuất hiện trước khi phát ban sởi toàn thân.

- Thời kỳ phát ban: từ ngày 3 - 7. Trẻ thường sốt cao 40 - 40,5 C kèm phát ban. Ban dạng dát sẩn là những nốt nhỏ đường kính vài mm, hơi nổi lên trên bề mặt da, sờ mịn như nhung và không đau, chồng lên nhau dạng giống hoa cúc trên nền da bình thường, không hoặc ít ngứa, không sinh mủ. Trường hợp nặng, ban có thể có dấu hiệu xuất huyết (sởi đen). Vị trí ban đầu tiên là đường chân tóc phía sau tai, sau đó xuất hiện ở mặt rồi lan xuống thân và cuối cùng đến tay chân  sau 24 giờ. Các biến chứng nhiễm trùng nặng của sởi thường gặp trong thời kỳ phát ban này.

- Thời kỳ hồi phục: Khi ban xuống đến chân th. sốt cũng đột ngột giảm đi nếu không có biến chứng. Sau đó, ban cũng nhạt dần và mất đi đúng theo tuần tự nó đ. xuất hiện, để lại trên da những dấu màu sậm lốm đốm như vằn da báo.

Tổng thời gian phát ban khoảng 9 ngày nên c.n gọi là sởi 9 ngày. Hầu hết, các bệnh phát ban khác có thời gian ngắn hơn, như rubella (sởi Đức) ban chỉ tồn tại 3 ngày (sởi 3 ngày).

BỆNH SỞI CÓ THỂ NHẦM VỚI NHỮNG BỆNH NÀO?

Bệnh sởi có thể nhầm với nhiều bệnh nhiễm khuẩn có sốt và phát ban khác như: bệnh sởi Đức (rubella), bệnh ban đào (roseola), bệnh tay chân - miệng, các nhiễm siêu vi khác không đặc hiệu. Một số bệnh hiếm gặp nhưng nặng như: bệnh Kawasaki (một bệnh làm viêm các mạch máu và có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim, gây đột tử), bệnh ung thư máu cũng có thể phát ban dạng sởi trong giai đoạn đầu.

HƯỚNG XỬ TRÍ KHI TRẺ MẮC BỆNH SỞI

Dù không có thuốc điều trị đặc hiệu cho siêu vi sởi nhưng xử trí đúng có vai trò rất quan trọng để giảm biến chứng và tử vong. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo: ở những cộng đồng có nguy cơ cao thiếu vitamin A hoặc tỷ lệ tử vong do sởi cao (>1%) nên dùng vitamin A liều cao cho mọi trẻ mắc sởi từ 6 tháng tuổi đến 2 tuổi. Trong thực tế, điều trị vitamin A đ. làm giảm hẳn biến chứng và tử vong ở trẻ mắc bệnh sởi. Kháng sinh cần thiết khi điều trị bội nhiễm ở phổi,

ruột và tai giữa. Trái với quan niệm sai lầm trong dân gian là “kiêng ăn, kiêng gió, kiêng nước” khi có phát ban, trẻ bệnh sởi cần ăn nhiều chất giàu dinh dưỡng (thịt, cá, trứng, sữa, dầu, mỡ) để phòng suy dinh dưỡng, nằm nơi thoáng mát và tắm rửa sạch sẽ để hạn chế nhiễm trùng da.

Nguy cơ lây nhiễm sởi xảy ra rất cao trong thời gian 5 ngày trước khi phát ban và 4 ngày sau khi phát ban. Vì vậy, tối thiểu cần cách ly trẻ trong những thời điểm này.

PHÒNG NGỪA BỆNH SỞI

Siêu vi sởi được cấy từ thập niên 1940 và được phân lập lần đầu tiên năm 1954 từ một trẻ 11 tuổi ở Mỹ tên Edmonston. Sử dụng chủng này, Hillerman bào chế thành công văc xin sởi năm 1963 và tiêm chủng cho cộng đồng lần đầu tiên ở Mỹ. Văc-xin ngừa sởi là siêu vi sởi sống giảm độc lực, đơn thuần hoặc kết hợp với các siêu vi sống khác là quai bị và rubella (MMR: Measles-Mumps-Rubella). Từ 1974, Tổ chức Y tế Thế giới đã triển khai chương trình Tiêm chủng mở rộng kể cả văc-xin sởi cho mọi quốc gia, có hiệu quả tốt làm giảm số lượng người mắc bệnh. Về mặt kỹ thuật, bệnh sởi có thể được tiệt trừ hẳn giống như bệnh đậu mùa trước đây, tuy nhiên cần phải có tỷ lệ chủng ngừa và miễn dịch cực cao trong cộng đồng.

Chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia (TCMRQG) ở Việt Nam, đạt tỷ lệ > 95% ở tất cả các quận huyện, qui định tiêm 2 mũi văc-xin sởi cho trẻ lúc 9 tháng tuổi và 18 tháng tuổi.

Tuy nhiên, chỉ có khoảng 85% trẻ tiêm chủng có được miễn dịch với bệnh sởi.

Gần đây xảy ra một số tai biến trong tiêm chủng khiến không ít phụ huynh lo lắng và ngưng không đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ theo chương trình. Vì vậy, số trẻ không có miễn dịch bảo vệ ngày càng cao gây ra lỗ hổng miễn dịch cộng đồng ngày càng lớn.

NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU TRONG TIÊM NGỪA SỞI THEO LỊCH TIÊM CHỦNG ÂU – MỸ, LỊCH TIÊM CHỦNG QUỐC GIA VÀ LỊCH TIÊM CHỦNG DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM?

Ở các nước phát triển như Âu - Mỹ, nguy cơ mắc sởi trong cộng đồng thấp. Văc-xin sởi được kết hợp với các văc-xin quai bị và rubella (văc-xin MMR), được tiêm lần đầu lúc12 - 15 tháng và tiêm nhắc lại lúc 4- 6 tuổi. Văc-xin sởi có khả năng tạo miễn dịch suốt đời, tiêm chủng lần thứ hai nhằm làm giảm tỷ lệ thất bại với văc xin tiêm lần đầu được ước lượng khoảng < 5%.

Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nguy cơ mắc sởi trong cộng đồng cao. Trẻ có nguy cơ mắc sởi sớm từ 9 tháng tuổi v. đa số kháng thể của mẹ truyền cho con giảm dần xuống dưới mức bảo vệ lúc 9 tháng. Chương trình TCMRQG Việt Nam đề nghị tiêm văc xin sởi lần đầu lúc trẻ 9 tháng tuổi và tiêm lần thứ hai lúc 18 tháng tuổi.

Ưu điểm của tiêm sớm là ph.ng được bệnh sớm cho trẻ, nhưng nhược điểm là có khoảng 10 - 20% trẻ lúc đó vẫn còn đủ kháng thể (các globulin miễn dịch kháng sởi từ mẹ truyền cho bé qua nhau thai) làm cho mũi văc-xin tiêm không hiệu quả. Việt Nam hiện đang có kế hoạch tiêm văc xin kết hợp sởi – rubella cho 23 triệu trẻ từ 9 tháng tuổi đến 14 tuổi trong toàn quốc năm 2014.

Hiện nay, văc-xin sởi trong chương trình TCMRQG là văc xin sởi đơn thuần. Văc-xin sởi tại các dịch vụ y tế tư nhân là văc-xin kết hợp 3 trong 1 như Priorix, MMR. Đa số ph.ng khám dịch vụ áp dụng lịch tiêm chủng của Mỹ, có thể thích hợp cho trẻ trong những cộng đồng có nguy cơ lây nhiễm thấp. Khi trẻ sống ở cộng đồng có nguy cơ lây nhiễm cao, nên tiêm chủng theo chương trình TCMRQG của nước ta.

Xem thêm bài viết tại đây.

Nguồn: TS. BS Bùi Quang Vinh - Tạp chí sống khỏe - BV ĐH Y Dược Tp.HCM 

Đang xem: BỆNH SỞI VÀ NHỮNG THÔNG TIN CẦN BIẾT

0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng