Phát ban là một vấn đề thường gây lo lắng, đặc biệt trong thời kỳ nhũ nhi. Tuy nhiên, Hầu hết các phát ban là không nghiêm trọng.
NGUYÊN NHÂN
Ban có thể gây ra do nhiễm trùng (virut, nấm hoặc vi khuẩn), tiếp xúc với chất kích ứng, dị ứng, quá mẫn cảm với thuốc, các phản ứng dị ứng khác, các tình trạng viêm, hoặc viêm mạch.
Nhìn chung nguyên nhân phổ biến nhất của phát ban ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ bao gồm:
• Phát ban ở vùng mặc tã (có hoặc không có nhiễm nấm candida)
• Tăng tiết bã nhờn
• Viêm da dị ứng (chàm)
• Ban virus không đặc hiệu
Nhiễm một sô virus gây ra phát ban. Một số (ví dụ:, thủy đậu, ban đỏ da, bệnh sởi) xuất hiện ban khá điển hình và có triệu chứng lâm sàng; những loại khác không đặc hiệu.
Da phản ứng thuốc thường là các ban dát sẩn tự giới hạn, nhưng đôi khi có những phản ứng nghiêm trọng hơn xảy ra.
Nguyên nhân không thường gặp nhưng nghiêm trọng của phát ban bao gồm
• Hội chứng bong vảy da do tụ cầu
• nhiễm khuẩn máu do não mô cầu
• bệnh Kawasaki
• Hội chứng Stevens-Johnson
CHẨN ĐOÁN
Đối với hầu hết các trường hợp phát ban ở trẻ nhũ nhi và trẻ em, tiền sử và khám lâm sàng là đủ để chẩn đoán.
Tiền sử bệnh: chú ý vào thời gian của đợt bệnh, đặc biệt là mối liên quan giữa phát ban và các triệu chứng khác.
Triệu chứng: tập trung vào các triệu chứng do các rối loạn gây ra, bao gồm các triệu chứng đường tiêu hóa (gợi ý bệnh viêm mạch liên quan đến IgA (hoặc Henoch-Schönlein purpura) hoặc hội chứng ure máu-huyết tán), các triệu chứng của khớp (gợi ý bệnh viêm mạch liên quan đến IgA hoặc bệnh Lyme), đau đầu hoặc các triệu chứng thần kinh (gợi ý viêm màng não hoặc bệnh Lyme).
Tiền sử dùng thuốc: lưu ý bất kỳ loại thuốc mới được sử dụng gần đây, đặc biệt là kháng sinh và thuốc chống co giật. Tiền sử gia đình bị dị ứng cũng cần được lưu ý.
Khám thực thể
- Đánh giá các dấu hiệu sống, đặc biệt là thân nhiệt (kiểm tra có sốt không).
- Đánh giá trẻ nhũ nhi hoặc trẻ em có dấu hiệu li bì, kích thích, hoặc khó thở.
- Khám sức khoẻ toàn diện, đặc biệt chú ý đến đặc điểm của tổn thương da, bao gồm sự xuất hiện của phồng rộp, bọng nước, ban xuất huyết, hoặc nổi mày đay và tổn thương niêm mạc.
- Trẻ em cần được đánh giá các dấu hiệu màng não (cổ cứng, dấu hiệu Kernig và Brudzinski) mặc dù những dấu hiệu này thường không có ở trẻ <2 tuổi.
Các dấu hiệu cần lưu ý
Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:
• Phỏng rộp hoặc bong tróc da
• Tiêu chảy và/hoặc đau bụng
• Sốt và kích thích quá mức hoặc liên tục
• Viêm niêm mạc
• Đốm xuất huyết và/hoặc ban xuất huyết
• Mề đay với suy hô hấp
Giải thích các dấu hiệu
Những đứa trẻ xuất hiện mà không có triệu chứng hoặc dấu hiệu toàn thân ít khả năng bị các rối loạn nguy hiểm. Sự xuất hiện của ban điển hình giúp chẩn đoán phân biệt. Các triệu chứng và dấu hiệu liên quan giúp xác định bệnh nhân có rối loạn nghiêm trọng và thường giúp hỗ trợ chẩn đoán.
Bọng nước và/hoặc bong tróc gợi ý hội chứng bong tróc da do tụ cầu hoặc Hội chứng Stevens-Johnson và được xem là một cấp cứu trong da liễu. Viêm kết mạc có thể xảy ra trong bệnh Kawasaki, bệnh sởi, hội chứng bong tróc da do tụ cầu, và hội chứng Stevens-Johnson. Bất cứ trẻ em nào có sốt và có chấm hoặc ban xuất huyết đều phải đánh giá cẩn thận về khả năng bệnh não mô cầu. Tiêu chảy phân máu có xanh xao và ban xuất huyết cần chú ý đến khả năng hội chứng huyết tán urê huyết cao. Sốt > 5 ngày với bằng chứng của viêm niêm mạc và phát ban cần khẩn trương xem xét và đánh giá thêm đối với bệnh Kawasaki.
Cận lâm sàng
Đối với hầu hết trẻ em, bệnh sử và khám lâm sàng là đủ để chẩn đoán. Xét nghiệm nhắm mục tiêu xác định các yếu tố nguy cơ đe dọa cuộc sống; bao gồm nhuộm Gram và cấy máu và chọc dịch não tủy để xác định viêm màng não do não mô cầu; công thức máu, xét nghiệm chức năng thận, và xét nghiệm phân cho hội chứng huyết tán ure huyết).
ĐIỀU TRỊ
Điều trị ban là điều trị trực tiếp nguyên nhân (ví dụ, kem chống nấm cho nhiễm nấm Candida).
Đối với phát ban vùng mặc tã, mục đích là giữ cho khu vực tã lót sạch sẽ và khô, chủ yếu bằng cách thay tã thường xuyên hơn và nhẹ nhàng vệ sinh vùng này xà phòng nhẹ và nước. Đôi khi thuốc mỡ có chứa kẽm oxit hoặc vitamin A và D có thể có ích.
Ngứa ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ có thể giảm bớt bằng thuốc kháng histamine đường uống:
• Diphenhydramine: Đối với trẻ em> 6 tháng, 1,25 mg/kg trong mỗi 6 giờ (tối đa 50 mg, 6 giờ)
• Hydroxyzine: Đối với trẻ> 6 tháng, 0,5 mg/kg trong mỗi 6 giờ (tối đa đối với trẻ <6 tuổi, 12,5 mg mỗi 6 giờ, đối với trẻ từ 6 tuổi trở lên, 25 mg mỗi 6 giờ)
• Cetirizin: Đối với trẻ 6 đến 23 tháng, 2,5 mg một lần/ngày; đối với trẻ từ 2 đến 5 tuổi, 2,5 đến 5 mg một lần/ngày; đối với những người> 6 tuổi, 5 đến 10 mg một lần/ngày
• Loratadine: Đối với trẻ từ 2 đến 5 tuổi, 5 mg x 1 lần/ngày; đối với những người> 6 tuổi, 10 mg x 1 lần/ngày
Xem thêm bài viết tại đây.