Tiêm chủng và những thông tin cần biết đang được mọi người quan tâm, việc tiêm chủng là vô cùng cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong đại dịch Covid-19. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp vài thông tin quan trọng cần biết về tiêm chủng.
Năm 1796, khi con người còn chưa biết gì về bản chất của các tác nhân gây bệnh, thầy thuốc người Anh Edward Jenner (1749 - 1823) là người đầu tiên được công nhận đã tìm ra cách tiêm chủng chất tiết lấy từ các tổn thương bệnh đậu mùa để tạo miễn dịch chống lại căn bệnh này. Năm 1876, trong quá trình nghiên cứu bệnh tả trên gà, Louis Pasteur đã xác nhận các giả thuyết của Jenner, mở đường cho ngành miễn dịch học hiện đại. Đến thế kỷ 20, với sự phát triển như vũ bão của y học, nhiều loại vắc-xin phòng bệnh mới được khám phá, góp phần bảo vệ loài người chống lại nhiều căn bệnh truyền nhiễm mà trước đây là hung thần đe dọa sự sống của con người. Ngày nay, tiêm chủng hay tiêm vắc-xin phòng bệnh trở nên rất quen thuộc đối với mọi người, mọi gia đình trên toàn thế giới.
Vaccin là gì?
Vắc xin là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân gây bệnh cụ thể. Các nghiên cứu mới còn mở ra hướng dùng vắc-xin để điều trị một số bệnh. Khi một kháng nguyên (vắc-xin) xâm nhập vào cơ thể con người, cơ thể sẽ nhận biết được sự xâm nhập này và kích thích hệ thống miễn dịch sản xuất tế bào lympho và các kháng thể tương ứng. Các tế bào nhớ lympho T và B giúp cơ thể cách chống lại bệnh trong tương lai. Kháng thể có 2 nhiệm vụ: tiêu diệt vi sinh vật và tồn tại trong máu trong một thời gian dài để bảo vệ cơ thể chống lại chính vi sinh vật đó trong những lần xâm nhập về sau.
Vắc-xin là những chế phẩm được làm từ chính vi sinh vật (hoặc một phần cấu trúc) đã chết hoặc đã được làm yếu đi. Vì vậy, vắc-xin rất ít có khả năng gây bệnh cho cơ thể.
Vì sao cần chủng ngừa cho con em chúng ta?
- Hệ thống miễn dịch của trẻ dưới 5 tuổi thường chưa hoàn chỉnh và sức đề kháng với bệnh cũng kém.
- Trẻ thường tiếp xúc không chọn lọc và dễ lây truyền bệnh nhất là ở môi trường nhà trẻ, trường học.
- Một số bệnh có khuynh hướng ngày càng gia tăng như SARS, H1N1, H5N1.
- Khả năng điều trị một số bệnh của y học hiện đại vẫn còn hạn chế, thậm chí ngay cả khi được điều trị kịp thời vẫn có thể để lại di chứng nặng hay tử vong.
Xét về kinh tế, tiêm chủng có tính lợi ích và hiệu quả cao vì nó giúp ngừa bệnh và giảm chi phí do phải nhập viện. Tại Mỹ, từ năm 1991, vắc-xin ngừa Haemophilus influeza type B (Hib) đã được áp dụng cho mọi trẻ trên 2 tháng tuổi và kết quả điều tra các năm 1998 - 2000 cho thấy, tỷ lệ bệnh viêm màng não và nhiễm trùng huyết do Hib đã giảm 99%. Nhận định được tầm quan trọng của chủng ngừa, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo tất cả các nước nên chủng ngừa cho trẻ em.
Thỉnh thoảng, chúng ta bị bối rối bởi những thông điệp từ các phương tiện truyền thông. Tháng 5/2013, Bộ Y tế đã quyết định tạm dừng tiêm vắc-xin Quinvaxem khi xảy ra nhiều trường hợp tai biến sau khi tiêm chủng Quinvaxem và Viêm gan siêu vi B vào năm 2012 - 2013. Điều này khiến cho nhiều phụ huynh lo lắng và quyết định không cho trẻ đi tiêm chủng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta ngưng tiêm chủng? Đó là bệnh sẽ bùng phát trở lại. Chúng ta có nhận thấy kinh nghiệm này từ Nhật Bản. Năm 1974, Nhật Bản đã thành công trong phòng ngừa bệnh ho gà cho gần 80% trẻ em Nhật bằng việc tiêm ngừa. Trong năm này, chỉ có 393 trường hợp ho gà được báo cáo trong cả nước và không có trường hợp nào tử vong do bệnh này. Thế nhưng, năm 1976, sau khi có tin đồn vắc-xin ngừa bệnh ho gà không an toàn và việc chủng ngừa bệnh này không còn cần thiết thì chỉ 10% trẻ được chích ngừa. Đến năm 1979, Nhật Bản bị dịch ho gà lớn, với hơn 13.000 trường hợp ho gà và 41 người bị tử vong. Năm 1981, chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu tiêm chủng vắc-xin ho gà loại vô bào, và một lần nữa, số người bị bệnh ho gà đã giảm xuống.
Tại Việt Nam, trong 4 tháng đầu năm 2014, sau khi tỷ lệ tiêm ngừa sởi giảm, số ca mắc bệnh sởi đã tăng mạnh trên toàn quốc với trên 4.300 ca mắc bệnh sởi, 112 trường hợp tử vong.
Những ai cần được tiêm chủng
Mọi người đều cần chủng ngừa để được bảo vệ khỏi những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Các đối tượng cần được ưu tiên chủng ngừa bao gồm:
- Trẻ em
- Thai phụ
- Phụ nữ trong tuổi sinh đẻ
- Người lớn mắc bệnh suyễn hay tâm phế mạn
- Tất cả những người có nguy cơ tiếp xúc với bệnh truyền nhiễm.
Những trường hợp không nên tiêm chủng
- Trẻ có tiền sử sốc hoặc phản ứng nặng sau lần tiêm chủng trước đó (như sốt cao trên 390C kèm co giật hoặc dấu hiệu não/màng não, tím tái, khó thở).
- Trẻ có tình trạng suy chức năng các cơ quan (như suy hô hấp, suy tuần hoàn, suy tim, suy thận, suy gan...).
- Trẻ bị suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS, bệnh suy giảm miễn dịch bẩm sinh) có chống chỉ định tiêm chủng các loại vắc-xin sống.
- Bộ Y tế cũng quy định rõ việc thực hiện tạm hoãn tiêm vắc-xin trong các trường hợp: trẻ mắc các bệnh cấp tính; trẻ sốt 37,50C trở lên hoặc hạ thân nhiệt 35,50C trở xuống (đo nhiệt độ tại nách); trẻ mới dùng các sản phẩm globu- lin miễn dịch trong vòng 3 tháng (trừ trường hợp trẻ đang sử dụng globulin miễn dịch điều trị viêm gan B); trẻ đang hoặc mới kết thúc liều điều trị corticoid (uống, tiêm) trong vòng 14 ngày; trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2 kg và những trường hợp khác theo hướng dẫn của các nhà sản xuất.
Các tình trạng không chống chỉ định tiêm chủng
- Các bệnh nhẹ không cần chống chỉ định tiêm chủng như: cảm lạnh, ho hay tiêu chảy mà không sốt.
- Điều trị kháng sinh hay trong giai đoạn phục hồi của bệnh.
- Sinh non.
- Bú sữa mẹ.
- Suy dinh dưỡng.
- Mới tiếp xúc với bệnh nhiễm.
- Tiền căn dị ứng không đặc hiệu.
- Dị ứng với Penicillin hay các kháng sinh khác trừ Neomycin hay Streptomycin.
- Trong gia đình có người liên quan đến co giật do vắc-xin ho gà hay sởi.
- Gia đình có trẻ đột tử nghi liên quan đến vắc-xin DTP.
Các loại vaccin cần được tiêm ngừa
Hiện nay, nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đã có vắc-xin phòng bệnh, nhờ đó số người bị những bệnh này đã giảm xuống rõ rệt. Một số bệnh cần chủng ngừa trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia gồm: lao, bại liệt, bạch hầu, uốn ván, ho gà, sởi và viêm gan siêu vi B. Chương trình áp dụng cho trẻ dưới 1 tuổi, phụ nữ có thai và được thực hiện tại tất cả trạm y tế phường xã, các phòng khám sức khỏe trẻ em quận, huyện và khoa sản của các bệnh viện công lập.
Ngoài ra, tại các bệnh viện, trung tâm y tế dự phòng, trung tâm y tế quận, huyện còn thực hiện chủng ngừa nhiều loại vắc-xin phòng bệnh như viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm não Nhật Bản, thương hàn, quai bị, sởi, rubella, thủy đậu (trái rạ), viêm màng não mủ do Haemophilus influenza type B (Hib), viêm màng não mủ do não mô cầu, cúm, viêm phổi, bại liệt, ung thư cổ tử cung… cho tất cả những người có nhu cầu.
Vì sao cần tiêm nhắc vaccin?
Cần tiêm chủng nhắc lại vì những lý do:
- Đối với một số loại vắc-xin (chủ yếu vắc-xin bất hoạt), liều tiêm đầu tiên không cung cấp được khả năng miễn dịch lâu dài như vắc- xin bảo vệ chống lại các vi khuẩn Hib – loại vi khuẩn gây viêm màng não. Vì vậy, cần tiêm nhắc để xây dựng khả năng miễn dịch hoàn chỉnh hơn và lâu dài hơn.
- Trong một số trường hợp khác, sau một thời gian, khả năng miễn dịch bắt đầu suy giảm, ví dụ như vắc-xin ngừa DTaP, bảo vệ chống lại bạch hầu, uốn ván và ho gà… Vào thời điểm đó, ở trẻ 4 - 6 tuổi, tiêm nhắc lại một liều là việc cần thiết để tăng cường mức độ miễn dịch cho trẻ.
- Đối với một số loại vắc-xin (chủ yếu vắc-xin sống), kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy để đáp ứng miễn dịch tốt nhất, tiêm nhiều hơn một liều là cần thiết cho tất cả mọi người. Ví dụ, sau khi tiêm một liều vắc-xin ngừa sởi - quai bị - rubella, một số người có thể không phát triển đủ kháng thể để chống lại bệnh. Nhưng tiêm liều thứ hai đảm bảo hầu hết mọi người được bảo vệ.
Với nhóm vắc-xin ngừa cúm, cả người lớn và trẻ em (trên 6 tháng) đều phải tiêm định kỳ mỗi năm một liều. Đây là việc cần thiết vì virus cúm gây bệnh có thể biến đổi từ năm này sang năm khác.
Tai biến sau khi tiêm vaccin?
Có hai loại tai biến là nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch:
Vắc-xin giảm độc lực có thể gây bệnh cho người bị suy giảm miễn dịch. Ví dụ: nguy cơ sốt bại liệt do virus Sabin (trong vòng 30 ngày sau uống) là 10−7, nghĩa là cứ 10 triệu trẻ em uống vắc-xin Sabin thì có 1 trường hợp bị tai nạn loại này. So với hiệu quả to lớn mà vắc-xin này mang lại thì tỷ lệ tai biến này có thể chấp nhận được.
- Ngoài ra, còn có nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vắc-xin. Tuy nhiên, có thể hạn chế nguy cơ này bằng các quy trình chặt chẽ trong sản xuất, bảo quản và sử dụng.
- Một số vắc-xin có thể gây rối loạn hệ miễn dịch sau tiêm. Kết quả thử nghiệm vắc-xin phòng bệnh dại trên cừu cho thấy có xác suất gây viêm não, một bệnh tự miễn trên hệ thần kinh chiếm tỷ lệ khoảng 1/3000 - 1/1000 trường hợp.
Xử trí tác dụng phụ sau chủng ngừa
Sau khi chủng ngừa, tùy theo loại tác dụng phụ mà chọn cách xử trí khác nhau.
- Đối với những phản ứng nhẹ như sưng, đau tại chỗ tiêm và sốt nhẹ, có thể xử trí tại nhà bằng cách cho uống Paracetamol và chườm lạnh chỗ tiêm.
- Đối với những phản ứng nặng hơn như sốt cao, co giật, tím tái… cần đưa ngay đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị thích hợp.
Đặc biệt lưu ý cần phải theo dõi trong 48 giờ các phản ứng sau tiêm vắc-xin, nếu có da tím tái, thở mệt, sốt cao, trẻ khóc nhiều không dứt hay có những vấn đề bất thường khác thì phải đưa ngay đến các cơ sở y tế gần nhất.
Tóm lại, Tiêm chủng là một trong những giải pháp tốt nhất để chấm dứt sự ảnh hưởng nghiêm trọng của một số bệnh với con người. Tiêm chủng giúp cơ thể miễn nhiễm nếu phải tiếp xúc với tác nhân gây bệnh, đồng thời góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong cộng đồng.
Ngoài ra, không chỉ có công dụng bảo vệ trẻ em, tiêm chủng còn giúp chúng ra bảo vệ mọi người xung quanh.
Xem thêm chi tiết tại đây
Nguồn: ThS BS Nguyễn Huy Luân - Tạp Chí Sống Khoẻ - Bệnh viện ĐH Y Dược Tp.HCM